Đánh giá thực trạng và hiệu quả một số hệ thống canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ - Huyện Chợ Mới - Tỉnh Bắc Kạn
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 126.38 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Định hướng sử dụng đất canh tác nương rẫy được đề xuất dựa trên kết quả phân tích đánh giá hiện trạng, hiệu quả canh tác và các tác động của hệ thống canh tác nương rẫy. Các giải pháp được đề cập là duy trì 176,19 ha diện tích nương rẫy cố định, kết hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá thực trạng và hiệu quả một số hệ thống canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ - Huyện Chợ Mới - Tỉnh Bắc Kạn Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ HỆ THỐNG CANH TÁC NƯƠNG RẪY TẠI XÃ CAO KỲ- HUYỆN CHỢ MỚI -TỈNH BẮC KẠN Nguyễn Văn Công 1*, Nguyễn Thị Kim Anh1, Nguyễn Thị Thu Hoàn2 1 Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên 2 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Diện tích canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ gồm có 176,19 ha nương rẫy cố định, 1026,25 ha là nương rẫy bán cố định và nương rẫy không cố định. Thông qua việc điều tra 30 hộ canh tác nương rẫy, nhóm nghiên cứu đã đánh giá được hiệu quả của một số hệ thống, cụ thể là nương rẫy cố định đem lại hiệu quả kinh tế khá ổn định, đạt 38,68 triệu đồng/ha/năm. Mô hình nương rẫy không cố định đạt 26,22 triệu đồng/ha, tuy nhiên canh tác nương rẫy chỉ áp dụng thời gian ngắn, không cố định. Mô hình nương rẫy bán cố định đạt 17,17 triệu đồng/ha, kiểu canh tác này ít phổ biến trên địa bàn. Cơ cấu chi phí và thu nhập của từng hình thức canh tác nương rẫy có tỷ lệ khác nhau do cơ cấu cây trồng khác nhau. Định hướng sử dụng đất canh tác nương rẫy được đề xuất dựa trên kết quả phân tích đánh giá hiện trạng, hiệu quả canh tác và các tác động của hệ thống canh tác nương rẫy. Các giải pháp được đề cập là duy trì 176,19 ha diện tích nương rẫy cố định, kết hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đối với hình thức nương rẫy không cố định trồng rừng phòng hộ nơi dốc cao, nguy cơ xói mòn mạnh, trồng rừng sản xuất, chuyển hóa nương rẫy theo hướng nông lâm kết hợp (NLKH), kết hợp khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên nơi có cây tái sinh mục đích và chuyển hóa một số diện tích nương rẫy có cây tái sinh sang sản xuất lâm nghiệp là chính. Từ khóa: canh tác, nương rẫy, hiệu quả, kinh tế, tác động, mô hình, Chợ Mới MỞ ĐẦU* Canh tác nương rẫy (CTNR) được hiểu theo nhiều cách khác nhau: nông nghiệp du canh, canh tác du canh…Mặc dù theo cách hiểu nào thì cũng phải khẳng định rằng canh tác nương rẫy là một dạng sử dụng đất có lịch sử hàng ngàn năm và nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sinh thái vùng nhiệt đới. Ước tính rằng có khoảng 250 đến 300 triệu người sinh sống bằng việc canh tác nương rẫy, tác động đến gần một nửa tổng diện tích đất vùng nhiệt đới. Riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã có 30 triệu người sống phụ thuộc vào canh tác nương rẫy trên một diện tích khoảng 75 triệu ha (Srivastava, 1986) [5]. Ngày nay việc canh tác nương rẫy vẫn được nhiều người coi là nguyên nhân chính của nạn mất rừng nhiệt đới, tuy vậy, một số nhà nghiên cứu đã coi nương rẫy du canh như một phương pháp có hiệu quả nhất để đối phó với * Tel:0915600500; email: congvan600@gmail.com các thực thể sinh thái của vùng nhiệt đới (Cox và Atkins, 1976) nhưng chỉ thích hợp trong điều kiện dân số thấp (dưới 50 người/ km2), còn trong nhiều trường hợp phương thức canh tác nương rẫy du canh truyền thống còn có tác dụng tích cực trong quá trình diễn thế và tái tạo của rừng (Odum,1971; Bodley, 1976) [2] và trong một chừng mực có thể kiểm soát được thì nương rẫy không làm tăng thêm nguy cơ phá rừng mà còn góp phần ổn định tình hình dân cư sinh sống, tạo nguồn lương thực tại chỗ nhằm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 60.651,0 ha trong đó có 42.438,0 ha là đất lâm nghiệp [4], là nơi có địa hình phức tạp, đất dốc chủ yếu và là địa bàn sinh sống của nhiều thành phần dân tộc, đời sống nông thôn nghèo và còn nhiều khó khăn, thu nhập của người dân chủ yếu từ sản xuất nông lâm nghiệp, tuy nhiên hiệu quả kinh tế từ ngành nghề này của vùng còn hạn chế và thực sự còn thấp. Đồng thời canh tác 49 Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ trên đất dốc theo hình thức nương rẫy trên địa bàn tỉnh cũng đang là vấn đề hết sức bức xúc vì hiệu quả kinh tế thấp và ảnh hưởng xấu đến môi trường, vì vậy vấn đề thực tiễn cần giải quyết là đánh giá thực trạng và hiệu quả của một số hệ thống canh tác nương rẫy nhằm đề xuất giải pháp sử dụng đất dốc hiệu quả là thực sự cần thiết, đặc biệt trong chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa bàn huyện, xã miền núi hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, chúng tôi đề cập tới kết quả đánh giá thực trạng và hiệu quả hệ thống canh tác nương rẫy nhằm đưa ra định hướng sử dụng đất nương rẫy cho xã Cao Kỳ, Chợ Mới, Bắc Kạn. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU • Phạm vi nghiên cứu: Một số hệ thống canh tác trên đất nương rẫy tại xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn • Nội dung nghiên cứu: - Đánh giá thực trạng sử dụng nương rẫy của xã Cao Kỳ. - Điều tra, khảo sát một số hệ thống canh tác nương rẫy trên địa bàn. - Đánh giá hiệu quả kinh tế một số hệ thống canh tác nương rẫy tại khu vực nghiên cứu. - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả CTNR và tác động của hệ thống CTNR đến rừng và đất rừng - Đề xuất định hướng sử dụng đất nương rẫy tại khu vực nghiên cứu • Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: - Thu thập các số liệu thứ cấp qua tiếp cận và kế thừa các tài liệu, số liệu có sẵn ở các cơ quan như: Hiện trạng đất đai, số liệu kinh tế xã hội, khí hậu thủy văn.... - Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA): Phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình, cán bộ xã, cán bộ kiểm lâm để tìm hiểu thực trạng, hiệu quả của canh tác nương rẫy tại khu vực nghiên cứu. Đề tài đã tiến hành phỏng vấn 35 người trong đó 30 người dân và 50 97(09): 49 - 55 5 cán bộ. Kết quả phỏng vấn được tổng hợp theo phiếu điều tra được xây dựng trước. - Phương pháp khảo sát thực địa: Tiến hành khảo sát thực địa, quan sát trực tiếp các hệ thống canh tác nương rẫy, phân tích các thuận lợi, khó khăn trên cơ sở khảo sát và vẽ lát cắt mô hình. - Phương pháp xử lý số liệu: + Tính hiệu quả kinh tế của một hệ thống canh tác nương rẫy /năm sử dụng công thức sau: T= Thu nhập của cây ăn quả/năm (A) ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá thực trạng và hiệu quả một số hệ thống canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ - Huyện Chợ Mới - Tỉnh Bắc Kạn Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ HỆ THỐNG CANH TÁC NƯƠNG RẪY TẠI XÃ CAO KỲ- HUYỆN CHỢ MỚI -TỈNH BẮC KẠN Nguyễn Văn Công 1*, Nguyễn Thị Kim Anh1, Nguyễn Thị Thu Hoàn2 1 Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên 2 Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Diện tích canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ gồm có 176,19 ha nương rẫy cố định, 1026,25 ha là nương rẫy bán cố định và nương rẫy không cố định. Thông qua việc điều tra 30 hộ canh tác nương rẫy, nhóm nghiên cứu đã đánh giá được hiệu quả của một số hệ thống, cụ thể là nương rẫy cố định đem lại hiệu quả kinh tế khá ổn định, đạt 38,68 triệu đồng/ha/năm. Mô hình nương rẫy không cố định đạt 26,22 triệu đồng/ha, tuy nhiên canh tác nương rẫy chỉ áp dụng thời gian ngắn, không cố định. Mô hình nương rẫy bán cố định đạt 17,17 triệu đồng/ha, kiểu canh tác này ít phổ biến trên địa bàn. Cơ cấu chi phí và thu nhập của từng hình thức canh tác nương rẫy có tỷ lệ khác nhau do cơ cấu cây trồng khác nhau. Định hướng sử dụng đất canh tác nương rẫy được đề xuất dựa trên kết quả phân tích đánh giá hiện trạng, hiệu quả canh tác và các tác động của hệ thống canh tác nương rẫy. Các giải pháp được đề cập là duy trì 176,19 ha diện tích nương rẫy cố định, kết hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đối với hình thức nương rẫy không cố định trồng rừng phòng hộ nơi dốc cao, nguy cơ xói mòn mạnh, trồng rừng sản xuất, chuyển hóa nương rẫy theo hướng nông lâm kết hợp (NLKH), kết hợp khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên nơi có cây tái sinh mục đích và chuyển hóa một số diện tích nương rẫy có cây tái sinh sang sản xuất lâm nghiệp là chính. Từ khóa: canh tác, nương rẫy, hiệu quả, kinh tế, tác động, mô hình, Chợ Mới MỞ ĐẦU* Canh tác nương rẫy (CTNR) được hiểu theo nhiều cách khác nhau: nông nghiệp du canh, canh tác du canh…Mặc dù theo cách hiểu nào thì cũng phải khẳng định rằng canh tác nương rẫy là một dạng sử dụng đất có lịch sử hàng ngàn năm và nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sinh thái vùng nhiệt đới. Ước tính rằng có khoảng 250 đến 300 triệu người sinh sống bằng việc canh tác nương rẫy, tác động đến gần một nửa tổng diện tích đất vùng nhiệt đới. Riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã có 30 triệu người sống phụ thuộc vào canh tác nương rẫy trên một diện tích khoảng 75 triệu ha (Srivastava, 1986) [5]. Ngày nay việc canh tác nương rẫy vẫn được nhiều người coi là nguyên nhân chính của nạn mất rừng nhiệt đới, tuy vậy, một số nhà nghiên cứu đã coi nương rẫy du canh như một phương pháp có hiệu quả nhất để đối phó với * Tel:0915600500; email: congvan600@gmail.com các thực thể sinh thái của vùng nhiệt đới (Cox và Atkins, 1976) nhưng chỉ thích hợp trong điều kiện dân số thấp (dưới 50 người/ km2), còn trong nhiều trường hợp phương thức canh tác nương rẫy du canh truyền thống còn có tác dụng tích cực trong quá trình diễn thế và tái tạo của rừng (Odum,1971; Bodley, 1976) [2] và trong một chừng mực có thể kiểm soát được thì nương rẫy không làm tăng thêm nguy cơ phá rừng mà còn góp phần ổn định tình hình dân cư sinh sống, tạo nguồn lương thực tại chỗ nhằm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 60.651,0 ha trong đó có 42.438,0 ha là đất lâm nghiệp [4], là nơi có địa hình phức tạp, đất dốc chủ yếu và là địa bàn sinh sống của nhiều thành phần dân tộc, đời sống nông thôn nghèo và còn nhiều khó khăn, thu nhập của người dân chủ yếu từ sản xuất nông lâm nghiệp, tuy nhiên hiệu quả kinh tế từ ngành nghề này của vùng còn hạn chế và thực sự còn thấp. Đồng thời canh tác 49 Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ trên đất dốc theo hình thức nương rẫy trên địa bàn tỉnh cũng đang là vấn đề hết sức bức xúc vì hiệu quả kinh tế thấp và ảnh hưởng xấu đến môi trường, vì vậy vấn đề thực tiễn cần giải quyết là đánh giá thực trạng và hiệu quả của một số hệ thống canh tác nương rẫy nhằm đề xuất giải pháp sử dụng đất dốc hiệu quả là thực sự cần thiết, đặc biệt trong chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa bàn huyện, xã miền núi hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, chúng tôi đề cập tới kết quả đánh giá thực trạng và hiệu quả hệ thống canh tác nương rẫy nhằm đưa ra định hướng sử dụng đất nương rẫy cho xã Cao Kỳ, Chợ Mới, Bắc Kạn. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU • Phạm vi nghiên cứu: Một số hệ thống canh tác trên đất nương rẫy tại xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn • Nội dung nghiên cứu: - Đánh giá thực trạng sử dụng nương rẫy của xã Cao Kỳ. - Điều tra, khảo sát một số hệ thống canh tác nương rẫy trên địa bàn. - Đánh giá hiệu quả kinh tế một số hệ thống canh tác nương rẫy tại khu vực nghiên cứu. - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả CTNR và tác động của hệ thống CTNR đến rừng và đất rừng - Đề xuất định hướng sử dụng đất nương rẫy tại khu vực nghiên cứu • Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: - Thu thập các số liệu thứ cấp qua tiếp cận và kế thừa các tài liệu, số liệu có sẵn ở các cơ quan như: Hiện trạng đất đai, số liệu kinh tế xã hội, khí hậu thủy văn.... - Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA): Phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình, cán bộ xã, cán bộ kiểm lâm để tìm hiểu thực trạng, hiệu quả của canh tác nương rẫy tại khu vực nghiên cứu. Đề tài đã tiến hành phỏng vấn 35 người trong đó 30 người dân và 50 97(09): 49 - 55 5 cán bộ. Kết quả phỏng vấn được tổng hợp theo phiếu điều tra được xây dựng trước. - Phương pháp khảo sát thực địa: Tiến hành khảo sát thực địa, quan sát trực tiếp các hệ thống canh tác nương rẫy, phân tích các thuận lợi, khó khăn trên cơ sở khảo sát và vẽ lát cắt mô hình. - Phương pháp xử lý số liệu: + Tính hiệu quả kinh tế của một hệ thống canh tác nương rẫy /năm sử dụng công thức sau: T= Thu nhập của cây ăn quả/năm (A) ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thực trạng canh tác nương rẫy Hiệu quả canh tác nương rẫy Tỉnh Bắc Kạn Hệ thống canh tác nương rẫy Biện pháp thâm canh tăng vụ Canh tác nương rẫyGợi ý tài liệu liên quan:
-
Một số vấn đề đổi mới quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
5 trang 109 0 0 -
2 trang 79 0 0
-
8 trang 24 0 0
-
Nghị quyết số 21/2012/NQ-HĐND
5 trang 24 0 0 -
104 trang 22 0 0
-
Đa dạng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
8 trang 22 0 0 -
Khí hậu và sự thành tạo cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
4 trang 22 0 0 -
Quyết định số 2222/2012/QĐ-UBND
55 trang 21 0 0 -
Quyết định số 1837/2012/QĐ-UBND
7 trang 21 0 0 -
10 trang 19 0 0