Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải: 1. Kinh tế toàn cầu và tác động trái ngược của nó đối với cuộc sống của những người nghèo; 2. Phẩm giá con người với tư cách quan niệm về sự phát triển không thể bị giới hạn bởi sự tăng trưởng kinh tế thuần tuý; 3. Phát triển toàn diện theo hướng lấy con người làm trung tâm; 4. Toàn cầu hoá nhân tính trên cơ sở đoàn kết xã hội; 5. Trách nhiệm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đạo đức trong đời sống kinh tế đoàn kết trong một thế giới toàn cầu hóa
ĐẠO ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ: ĐOÀN KẾT TRONG MỘT
THẾ GIỚI TOÀN CẦU HOÁ?!
Nguồn: fpe.hnue.edu.vn
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải: 1. Kinh tế
toàn cầu và tác động trái ngược của nó đối với cuộc sống của những người nghèo; 2.
Phẩm giá con người với tư cách quan niệm về sự phát triển không thể bị giới hạn bởi
sự tăng trưởng kinh tế thuần tuý; 3. Phát triển toàn diện theo hướng lấy con người
làm trung tâm; 4. Toàn cầu hoá nhân tính trên cơ sở đoàn kết xã hội; 5. Trách nhiệm
của các quốc gia đang phát triển trong cuộc chiến chống đói nghèo; 6. Vấn đề cải tổ
trật tự kinh tế toàn cầu trong bối cảnh sự liên kết và phụ thuộc toàn cầu ngày một gia
tăng.
JOHANNES WALLACHER (*)
Kinh tế toàn cầu và tác động trái ngược đối với người nghèo
Sự gia tăng mạnh mẽ của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo nên một sự tranh luận
sôi nổi về kinh tế toàn cầu và vai trò của nó trong sự tích luỹ phúc lợi và giảm bớt đói
nghèo. Một mặt, sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế có thể là một động lực to lớn cho
sự phát triển kinh tế và thịnh vượng chung, bởi thị trường mở sẽ dẫn tới những cạnh
tranh mạnh mẽ hơn và do vậy, cũng sẽ dẫn tới hiệu quả to lớn hơn của nền kinh tế. Vì
vậy, gia nhập vào nền thương mại thế giới và thị trường tài chính quốc tế sẽ đem lại cho
những nước đang phát triển cơ hội cải thiện sự phát triển kinh tế của mình thông qua
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, gia tăng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và việc áp dụng
các công nghệ mới. Điều này đã được minh chứng ở rất nhiều nơi chứ không chỉ ở một
vài quốc gia đặc biệt thành công trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Mặt khác, sự hội nhập ấy, với dòng lưu thông hàng hoá và tư bản quốc tế, cũng tạo nên
những nguy cơ hoàn toàn có thật, nhất là đối với các nền kinh tế yếu kém và những
người nghèo. Các nền kinh tế mở càng dễ bị tác động từ bên ngoài (ví dụ, giá cả thị
trường quốc tế hay tỉ giá hối đoái lên xuống) và thường xuyên lệ thuộc vào những điều
chỉnh xã hội và kinh tế. Điều này dẫn đến những vấn đề nan giải, đặc biệt là đối với
người nghèo. Họ không những dễ bị tổn thương nhất mà thêm vào đó, họ còn có rất ít
khả năng tự bảo vệ trước những thay đổi và khủng hoảng về cơ cấu như vậy, bởi họ
không có cơ hội tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và hệ thống an sinh xã hội, và
trong hầu hết các trường hợp, họ có rất ít cơ hội tham gia chính trị. Bởi vậy, việc mở rộng
biên giới thương mại, trong nhiều trường hợp, sẽ dẫn đến một sự phân phối bất bình đẳng
cả về thu nhập lẫn những khả năng kinh tế. Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil là những ví dụ
rõ rệt; ở những nơi đó, bất bình đẳng về thu nhập ngày càng sâu sắc, bất chấp tỉ lệ tăng
trưởng rất cao của nền kinh tế quốc dân.
Do những kết quả hết sức trái ngược như vậy, sự hội nhập kinh tế toàn cầu, tự bản thân
nó, không phải là một mục đích, mà luôn phải được xem xét với con mắt phê phán.
Hướng đến chính mục tiêu ấy, Giáo hội Thiên Chúa giáo có thể kết hợp với truyền
thống phong phú của sự giáo dục xã hội - cái truyền thống đã đem lại những nguyên tắc
đạo đức cho cả sự phán xét những trạng thái kinh tế - xã hội lẫn sự công thức hoá những
chính sách mang tính cơ cấu nhằm kết hợp hiệu quả kinh tế với công bằng xã hội và khả
năng chịu đựng của hệ sinh thái. Mặc dù bắt rễ trong Kinh thánh và những truyền thống
tư tưởng riêng biệt, nhưng những nguyên tắc này luôn mang tính đạo đức và do vậy,
những suy tư hợp lý là hoàn toàn gần gũi với lý trí của con người.
Phẩm giá con người
“Học thuyết xã hội của Nhà thờ” (CST) dựa trên khái niệm về phẩm giá con người, khái
niệm được dùng để chỉ bất cứ cá nhân nào với một lý do giản đơn duy nhất – là người.
Đó cũng là nguyên tắc chỉ đạo của Hiến chương Liên hợp quốc về Quyền con người,
bao gồm không chỉ những quyền công dân và chính trị (so sánh với Hiệp ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị, 1966), mà cả các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá (Hiệp
ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, 1966). Lôgíc của quan điểm đạo đức này là
một quyền lựa chọn ưu tiên cho những ai bị loại khỏi những quyền kể trên (“quyền lựa
chọn cho người nghèo”). Mọi chính sách nhằm quản lý thị trường ở trình độ quốc gia và
quốc tế, vì vậy, phải được xem xét dựa trên sự tác động của chúng đối với người nghèo.
Sự phát triển toàn diện và lấy con người làm trung tâm
Phẩm giá con người còn có nghĩa là quan niệm về phát triển không thể bị giới hạn bởi
sự tăng trưởng kinh tế thuần tuý. Quan niệm này là tuyệt đối cần thiết và cơ bản – đó là
Thông điệp chủ yếu trong Thư gửi giáo dân của Giáo hoàng Paul VI Về sự phát triển
của các dân tộc (PP) từ năm 1967. Đây là một trong những ấn phẩm đầu tiên có tính
thông tri của Giáo hoàng đề cập toàn diện đến sự phát triển và cũng là một trong những
văn bản có ảnh hưởng lớn nhất của “Học thuyết xã hội của Nhà thờ” trong những thập
kỷ gần đây. Theo Giáo hoàng Paul VI, phát triển nhằm một mục đích xác thực thì “phải
toàn diện: toàn diện - đó là phải khuyến khích cái thiện của mỗi người và của mọi
người” (PP 14). Vì lý do đó, mọi người đều có quyền tham dự và có đủ tư cách để phát
triển bản thân mình và thế giới, bất kể những nền văn hoá khác biệt và những quan niệm
trái ngược nhau về giá trị của họ. Đó chính là nguyên nhân vì sao bản thân tính người
khởi thuỷ phải được đối xử với tư cách nguồn lực trực tiếp cho một sự phát triển toàn
diện. Phát triển theo nghĩa này luôn là “tự phát triển”, nghĩa là phẩm giá con người đòi hỏi
con người phải vừa là trung tâm vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể vừa là điểm khởi đầu của
mọi sự phát triển.
Điều này tạo ra những hệ quả có ảnh hưởng sâu rộng đối với cả học thuyết về phát
triển lẫn chính sách phát triển. Thông tri của Giáo hoàng đã dự đoán rất nhiều khám
phá mà phải sau đó vài thập kỷ, mới được nhiều nhà kinh tế học theo quan điểm phát
triển và những cơ quan phát triển thừa nhận. Sau đây là một vài minh hoạ:
- PP đã được ban hành ba thập ...