Thông tin tài liệu:
Chênh lệch giữa giá trị của số chứng khoán này và khoản vay chính là giá trị đầu tư thuần. Mức chênh lệch này phải luôn lớn hơn mức đặt cọc tối thiểu để bảo vệ nhà môi giới trước sự giảm giá của số chứng khoán đó xuống dưới giá trị khoản vay. Đây là một kĩ thuật nhân vốn đầu tư, giúp nhà đầu tư có thể sử dụng một số tiền lớn hơn số vốn thực tế của anh ta để đầu tư vào chứng khoán. Kiểu đầu tư này là một cách tuyệt vời để kiếm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặt cọc mua chứng khoán (Margin buying)
Đặt cọc mua chứng khoán (Margin
buying)
Chênh lệch giữa giá trị của số chứng khoán này và khoản vay chính là giá trị
đầu tư thuần. Mức chênh lệch này phải luôn lớn hơn mức đặt cọc tối thiểu để
bảo vệ nhà môi giới trước sự giảm giá của số chứng khoán đó xuống dưới
giá trị khoản vay.
Đây là một kĩ thuật nhân vốn đầu tư, giúp nhà đầu tư có thể sử dụng một số
tiền lớn hơn số vốn thực tế của anh ta để đầu tư vào chứng khoán. Kiểu đầu
tư này là một cách tuyệt vời để kiếm được lợi nhuận lớn từ số vốn đầu tư
tương đối nhỏ, nhưng nó cũng có thể làm cho nhà đầu tư bị thua lỗ cực kì
nặng nề.
Ví dụ: một nhà đầu tư có trong tay $1000 và dự định đầu tư vào một cổ
phiếu Y. Hãy xem xét hai cách đầu tư sau:
Cách 1: nhà đầu tư mua số cổ phiếu đó hoàn toàn bằng tiền của mình, anh
ta sẽ mua được số cổ phiếu trị giá $1000. Nếu số cổ phiếu đó tăng giá
gấp đôi lên $2000 thì nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận $1000 - tương
đương 100%. Nếu số cổ phiếu trên sụt xuống chỉ còn $500, thì nhà đầu tư lỗ
mất $500, thật tồi tệ, nhưng dù sao ông ta vẫn còn lại chút ít vốn để đầu tư.
Cách 2: nhà đầu tư dùng $1000 này làm khoản đặt cọc, để vay thêm $3000
nữa từ công ty chứng khoán và mua số cổ phiếu trị giá $4000. Sau đó toàn
bộ số cổ phiếu này cũng được công ty chứng khoán giữ lại như một khoản
đặt cọc. Ở đây giá trị đầu tư thuần lúc đầu là $4000 - $3000 = $1000, và sẽ
thay đổi tùy theo biến động giá chứng khoán. Nếu giá cổ phiếu tăng gấp đôi
lên $8000, giá trị đầu tư thuần lúc này tăng lên $5000, nhà đầu tư sẽ kiếm
được $4000, trừ tiền lãi vay và chi phí giao dịch anh ta vẫn đạt được tỉ
suất lợi nhuận gần 400%. Ngược lại nếu giá cổ phiếu giảm xuống còn một
nửa - $2000, anh ta thua lỗ $2000, không chỉ mất luôn số vốn đầu tư mà
thậm chí còn bị lâm vào nợ nần chồng chất.
Trên đây chỉ là ví dụ minh họa cách thức mà kiểu đầu tư này nhân lãi và lỗ
lên nhiều lần. Trên thực tế, công ty chứng khoán hiếm khi buông lỏng
nhà đầu tư để mình tự rơi vào hoàn cảnh khó khăn như trên, vì khi nhà đầu
tư thua lỗ thì công ty chứng khoán cũng khó có thể đảm bảo khả năng thu
hồi được khoản vay của mình.
Kể từ thập niên 1920 đến nay, hoạt động đặt cọc mua chứng khoán này đã
có những thay đổi đáng kể. Vào thời đó, các qui định giám sát hoạt động đầu
tư kiểu này còn khá lỏng và yêu cầu đặt cọc tối thiểu là rất thấp. Khi giá
chứng khoán sụt giảm giá trị đầu tư thuần sẽ nhanh chóng giảm xuống dưới
mức tối thiểu đó, buộc nhà đầu tư phải bán tháo chứng khoán ra và đây là
một nhân tố dẫn đến cuộc Đại khủng hoảng và suy thoái năm 1929. Hiện
nay, các nhà môi giới có xu hướng đặt ra mức yêu cầu đặt cọc tối thiểu cao
hơn, để tự bảo vệ họ trước những biến động của thị trường. Ở Mỹ, Ủy ban
chứng khoán Liên Bang đã đặt ra một số quy định điều chỉnh hoạt động đặt
cọc mua chứng khoán, và các tổ chức tự điều chỉnh như NASD hay NYSE
cũng có những qui định của riêng mình. Trong các qui định này quan trọng
nhất là mức đặt cọc tối thiểu bắt buộc, trên NYSE mỗi nhà đầu tư phải đặt
cọc tại công ty môi giới $2000 và bị giới hạn tỉ lệ vay không quá 50% tổng
giá trị khoản đầu tư