Dấu ấn văn xuôi Nga thế kỉ XIX trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 203.91 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nam Cao được coi là nhà văn đã tiếp thu rất sáng tạo ảnh hưởng của văn học Nga, đặc biệt là của Chekhov. Quả là Nam Cao hay nhắc đến Chekhov, mong viết được như Chekhov.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dấu ấn văn xuôi Nga thế kỉ XIX trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam Dấu ấn văn xuôi Nga thế kỉXIX trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam Nam Cao được coi là nhà văn đã tiếp thu rất sáng tạo ảnh hưởng của văn họcNga, đặc biệt là của Chekhov. Quả là Nam Cao hay nhắc đến Chekhov, mong viết được như Chekhov. Nhiềunhà nghiên cứu phát hiện: Nam Cao, người đến sau Nguyễn Công Hoan, Vũ TrọngPhụng, Ngô Tất Tố, đã tìm cho mình một hướng đi, có phần giống Chekhov, đã tựvạch lấy đường đi riêng, tìm đến chủ nghĩa hiện thực đời thường, soi chiếu các giá trịphổ quát của đời sống vào “những chuyện vặt vãnh”. Ở Nam Cao cũng có chất thơ,chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Chekhov.Và, cũng như Chekhov, Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đờitrong những cái tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hàng ngày. Người ta thường nhắc đến những truyện không có “truyện” của Chekhov.Truyện Chekhov không có những biến cố trọng đại mang tính lịch sử toàn nhân loạinhư L. Tolstoi, không đi vào những gai góc dữ dội của bi kịch cuộc đời nhưDostoievski. Đề tài hàng trăm truyện ngắn Chekhov có thể thâu tóm bằng nhan đề mộttác phẩm của chính tác giả: Chuyện đời vặt vãnh. Thấy được gương mặt “cái hàngngày” tức đã nắm bắt được “mã” quan trọng để “đọc” Chekhov. Từ những điều hoàntoàn “vặt vãnh” ấy, Chekhov đã tạo nên những kiệt tác văn học. Cũng như Chekhov, s ự kiện trong tác phẩm Nam Cao là những hiện tượng đờithường mà nhà văn gọi là “Những chuyện không muốn viết”. Chỉ viết về cái vụn vặtđời thường nhưng ngòi bút Nam Cao thực sự vươn đến những vấn đề nhân bản sâu sắcvề cuộc sống và thân phận. Truyện Lão Hạc sâu lắng những suy ngẫm thấm thía lẽđời. Đời thừa không đơn thuần là chuyện vỡ mộng của văn sĩ vì áo cơm ghì sát đất,vì những lo toan vặt vãnh hàng ngày. Bi kịch của Đời thừa là bi kịch sự tha hóa tâmhồn và lí tưởng của tầng lớp trí thức - những khuôn mặt sáng giá nhất trong xã hộibấy giờ. Còn ở Chí Phèo, đâu chỉ là chuyện Chí Phèo say rượu rạch mặt ăn vạ. Cái lớn,cái đau của tác phẩm là khát vọng muốn làm người, muốn trở lại bộ mặt người của conngười lương thiện mà đành vĩnh - viễn - tuyệt - vọng trong xã hội Vũ Đại. “Phải là mộtbản lĩnh kiểu Chekhov, phải xuất phát từ những t ư tưởng sâu, tình cảm lớn mới viếtđược như thế”(16). Dưới ngòi bút Chekhov và Nam Cao, không gian, thời gian nghệ thuật đã trởthành những nhân tố giữ vai trò đặc biệt trong tác phẩm. Phản ánh cuộc sống ngột ngạt,tù túng của nước Nga buổi giao thời, Chekhov kiến tạo một không gian hẹp, khép kín,cách biệt với bên ngoài bởi những bức tường đá, những hàng rào có chấn song sắt,những cánh cửa luôn đóng… Ngay khi tác giả đ ưa đến không gian rộng hơn, người đọccũng không tránh khỏi cảm giác ngột ngạt: ngôi làng nằm sâu trong hẻm núi như bị cắtlìa khỏi thế giới xung quanh (Trong khe núi); “thành phố nhỏ xíu, ảm đạm hơn mộtngôi làng” (Cây hồ cầm của Rothshild). Đến thảo nguyên cũng bức bối, nhỏ hẹp bởihình ảnh chiếc cối xay gió, cái chòi quanh quẩn trong tầm mắt (Thảo nguyên).Nhưng hình thức phổ biến nhất của không gian hẹp, khép kín trong tác phẩmChekhov là những căn phòng. Mọi sự kiện, mọi biến cố quan trọng hay những chuỗingày vô vị của nhân vật đều chôn chặt trong đó. Đáng ngạc nhiên là các nhân vật củaChekhov không mấy bận tâm về trạng thái tồn tại của mình. Trong không gian tù hãm,họ hoặc kéo lê cuộc đời vô nghĩa, hoặc buông xuôi, tuyệt vọng. N ước Nga cuối thế kỉXIX trong tác phẩm Chekhov thực sự là nhà tù khổng lồ, khắp nơi trên đất Ngalà Phòng số 6. Trong tác phẩm Nam Cao, cũng gặp kiểu không gian tù đọng khép kín như vậy.Tương tự Chekhov, Nam Cao thường chú ý tả ngôi nhà, căn phòng, nhân vật đi đâu,làm gì, cuối cùng cũng trở về nơi riêng tư gánh bao lo toan vặt vãnh. Cái không giangọi là “nhà” trong tác phẩm Nam Cao đều rất ẩm thấp, tối tăm, thường lùi sâu vào ngõhẻm và đóng cửa. Đặt nhân vật vào không gian mà ánh sáng, không khí đ ều phải dèxẻn, Nam Cao khắc họa đậm nét cuộc sống bế tắc c ùng cực của xã hội ViệtNam đêmtrước Cách mạng tháng Tám. Đọc Nam Cao và Chekhov, người ta cùng chung cảm giác như đang chứngkiến dòng thời gian không vận động. Thời gian ngưng đọng, tr ì trệ ấy phủ lớp vángđặc quánh lên dòng sông cuộc đời, buộc con người sống bằng những đại lượng thờigian không đổi, những trạng thái hành động không đổi. Nhân vật của Chekhov đểmặc năm tháng trôi qua “không có việc g ì làm và không làm việc gì” (Ngôi nhà cócăn gác nhỏ), hoặc bị nhấn chìm trong cuộc sống đơn điệu, tầm thường. Trong thếgiới đó, các nhân vật đều mòn mỏi, biến dạng về nhân cách. Cuộc sống ấy đem đếncho con người cái chết trước tuổi - cái chết trong tâm hồn. Họ không có khả năngnhận biết quá khứ, cũng chẳng nghĩ đến t ương lai, mà nếu có thì tương lai “còn xalắm mới đến ngày kết cục” (Người đàn bà có con chó nhỏ). Thể hiện thành công hình thức thời gian không vận động, Chekhov đã “ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dấu ấn văn xuôi Nga thế kỉ XIX trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam Dấu ấn văn xuôi Nga thế kỉXIX trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam Nam Cao được coi là nhà văn đã tiếp thu rất sáng tạo ảnh hưởng của văn họcNga, đặc biệt là của Chekhov. Quả là Nam Cao hay nhắc đến Chekhov, mong viết được như Chekhov. Nhiềunhà nghiên cứu phát hiện: Nam Cao, người đến sau Nguyễn Công Hoan, Vũ TrọngPhụng, Ngô Tất Tố, đã tìm cho mình một hướng đi, có phần giống Chekhov, đã tựvạch lấy đường đi riêng, tìm đến chủ nghĩa hiện thực đời thường, soi chiếu các giá trịphổ quát của đời sống vào “những chuyện vặt vãnh”. Ở Nam Cao cũng có chất thơ,chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Chekhov.Và, cũng như Chekhov, Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đờitrong những cái tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hàng ngày. Người ta thường nhắc đến những truyện không có “truyện” của Chekhov.Truyện Chekhov không có những biến cố trọng đại mang tính lịch sử toàn nhân loạinhư L. Tolstoi, không đi vào những gai góc dữ dội của bi kịch cuộc đời nhưDostoievski. Đề tài hàng trăm truyện ngắn Chekhov có thể thâu tóm bằng nhan đề mộttác phẩm của chính tác giả: Chuyện đời vặt vãnh. Thấy được gương mặt “cái hàngngày” tức đã nắm bắt được “mã” quan trọng để “đọc” Chekhov. Từ những điều hoàntoàn “vặt vãnh” ấy, Chekhov đã tạo nên những kiệt tác văn học. Cũng như Chekhov, s ự kiện trong tác phẩm Nam Cao là những hiện tượng đờithường mà nhà văn gọi là “Những chuyện không muốn viết”. Chỉ viết về cái vụn vặtđời thường nhưng ngòi bút Nam Cao thực sự vươn đến những vấn đề nhân bản sâu sắcvề cuộc sống và thân phận. Truyện Lão Hạc sâu lắng những suy ngẫm thấm thía lẽđời. Đời thừa không đơn thuần là chuyện vỡ mộng của văn sĩ vì áo cơm ghì sát đất,vì những lo toan vặt vãnh hàng ngày. Bi kịch của Đời thừa là bi kịch sự tha hóa tâmhồn và lí tưởng của tầng lớp trí thức - những khuôn mặt sáng giá nhất trong xã hộibấy giờ. Còn ở Chí Phèo, đâu chỉ là chuyện Chí Phèo say rượu rạch mặt ăn vạ. Cái lớn,cái đau của tác phẩm là khát vọng muốn làm người, muốn trở lại bộ mặt người của conngười lương thiện mà đành vĩnh - viễn - tuyệt - vọng trong xã hội Vũ Đại. “Phải là mộtbản lĩnh kiểu Chekhov, phải xuất phát từ những t ư tưởng sâu, tình cảm lớn mới viếtđược như thế”(16). Dưới ngòi bút Chekhov và Nam Cao, không gian, thời gian nghệ thuật đã trởthành những nhân tố giữ vai trò đặc biệt trong tác phẩm. Phản ánh cuộc sống ngột ngạt,tù túng của nước Nga buổi giao thời, Chekhov kiến tạo một không gian hẹp, khép kín,cách biệt với bên ngoài bởi những bức tường đá, những hàng rào có chấn song sắt,những cánh cửa luôn đóng… Ngay khi tác giả đ ưa đến không gian rộng hơn, người đọccũng không tránh khỏi cảm giác ngột ngạt: ngôi làng nằm sâu trong hẻm núi như bị cắtlìa khỏi thế giới xung quanh (Trong khe núi); “thành phố nhỏ xíu, ảm đạm hơn mộtngôi làng” (Cây hồ cầm của Rothshild). Đến thảo nguyên cũng bức bối, nhỏ hẹp bởihình ảnh chiếc cối xay gió, cái chòi quanh quẩn trong tầm mắt (Thảo nguyên).Nhưng hình thức phổ biến nhất của không gian hẹp, khép kín trong tác phẩmChekhov là những căn phòng. Mọi sự kiện, mọi biến cố quan trọng hay những chuỗingày vô vị của nhân vật đều chôn chặt trong đó. Đáng ngạc nhiên là các nhân vật củaChekhov không mấy bận tâm về trạng thái tồn tại của mình. Trong không gian tù hãm,họ hoặc kéo lê cuộc đời vô nghĩa, hoặc buông xuôi, tuyệt vọng. N ước Nga cuối thế kỉXIX trong tác phẩm Chekhov thực sự là nhà tù khổng lồ, khắp nơi trên đất Ngalà Phòng số 6. Trong tác phẩm Nam Cao, cũng gặp kiểu không gian tù đọng khép kín như vậy.Tương tự Chekhov, Nam Cao thường chú ý tả ngôi nhà, căn phòng, nhân vật đi đâu,làm gì, cuối cùng cũng trở về nơi riêng tư gánh bao lo toan vặt vãnh. Cái không giangọi là “nhà” trong tác phẩm Nam Cao đều rất ẩm thấp, tối tăm, thường lùi sâu vào ngõhẻm và đóng cửa. Đặt nhân vật vào không gian mà ánh sáng, không khí đ ều phải dèxẻn, Nam Cao khắc họa đậm nét cuộc sống bế tắc c ùng cực của xã hội ViệtNam đêmtrước Cách mạng tháng Tám. Đọc Nam Cao và Chekhov, người ta cùng chung cảm giác như đang chứngkiến dòng thời gian không vận động. Thời gian ngưng đọng, tr ì trệ ấy phủ lớp vángđặc quánh lên dòng sông cuộc đời, buộc con người sống bằng những đại lượng thờigian không đổi, những trạng thái hành động không đổi. Nhân vật của Chekhov đểmặc năm tháng trôi qua “không có việc g ì làm và không làm việc gì” (Ngôi nhà cócăn gác nhỏ), hoặc bị nhấn chìm trong cuộc sống đơn điệu, tầm thường. Trong thếgiới đó, các nhân vật đều mòn mỏi, biến dạng về nhân cách. Cuộc sống ấy đem đếncho con người cái chết trước tuổi - cái chết trong tâm hồn. Họ không có khả năngnhận biết quá khứ, cũng chẳng nghĩ đến t ương lai, mà nếu có thì tương lai “còn xalắm mới đến ngày kết cục” (Người đàn bà có con chó nhỏ). Thể hiện thành công hình thức thời gian không vận động, Chekhov đã “ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3388 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 786 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 744 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 708 0 0 -
6 trang 608 0 0
-
2 trang 456 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 387 0 0 -
4 trang 359 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 302 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 240 0 0