Thông tin tài liệu:
Tỉ lệ chữa khỏi chứng đau bao tử hiện nay rất cao (80% đối với loét tá tràng và 50% với loét bao tử) nếu bệnh nhân tuân thủ nghiêm ngặt quy trình điều trị và chăm sóc.Đau bao tử là từ thông dụng để chỉ một hội chứng rối loạn bệnh lý của đường tiêu hóa tại đoạn cuối của thực quản nối vào bao tử (dạ dày), bao tử và phần đầu của ruột non (hay tá tràng).Đây là một bệnh lý khá phổ biến, tỉ lệ mắc bệnh ở nam giới cao gấp ba lần nữ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đau bao tử: Khó chữa khi... vô kỷ luật Đau bao tử: Khó chữa khi... vô kỷ luật Tỉ lệ chữa khỏi chứng đau bao tử hiện nay rất cao (80% đối với loét tátràng và 50% với loét bao tử) nếu bệnh nhân tuân thủ nghiêm ngặt quy trình điềutrị và chăm sóc. Đau bao tử là từ thông dụng để chỉ một hội chứng rối loạn bệnh lý củađường tiêu hóa tại đoạn cuối của thực quản nối vào bao tử (dạ dày), bao tử và phầnđầu của ruột non (hay tá tràng). Đây là một bệnh lý khá phổ biến, tỉ lệ mắc bệnh ở nam giới cao gấp ba lầnnữ giới. Ở các nước Tây Âu, nguy cơ cho một người có khả năng mắc bệnh nàytrong đời là 20%. Dù đến nay chưa có phương thức điều trị nào hữu hiệu tuyệt đối đối vớichứng bệnh này, song từ phát hiện mới về vai trò chính yếu của vi khuẩnHelicobacter pylori (HP) cũng như thuốc ức chế bơm proton, điều trị bệnh đau baotử đã có thay đổi ngoạn mục và khả năng thành công trong điều trị bệnh đã đượccải thiện rõ rệt. Do có nhiều yếu tố nguy cơ gây nên chứ không do một nguyên nhânđơn lẻ nào, dù vi khuẩn HP đóng vai trò rất quan trọng trong gây nên bệnh, đaubao tử vẫn được xem là một hội chứng chứ không phải là một bệnh. Ngoài tác nhân nhiễm trùng HP, bất kỳ yếu tố nào có thể gây mất thăngbằng giữa tiêu hủy và bảo vệ của bao tử đều có thể gây đau loét bao tử. Các yếu tốnày bao gồm: yếu tố thần kinh, tâm lý, stress, di truyền, dịch thể, lối sống (như hútthuốc lá, uống rượu quá độ), quan trọng hơn cả là việc sử dụng các thuốc giảm đauchống viêm thuộc dòng steroids hoặc không phải steroids. Đau bao tử thể hiện rất khác nhau đối với mỗi bệnh nhân. Thươngtổn của bệnh thể hiện từ nhẹ đến nặng, từ viêm sướt, viêm có loét ở các mức độ vàbiến chứng nặng là gây thủng, nặng nhất có thể ung thư trên nền bị loét. Vì thếviệc điều trị cũng tùy thuộc vào tác nhân chính yếu và mức độ tổn thương bệnh lýtrên bệnh nhân đó. Chẩn đoán bệnh đau bao tử hiện chủ yếu nhằm vào hai mục đích: Xem có sự hiện diện của vi khuẩn HP trong cơ thể và tại hệ thống tiêu hóahay không và đánh giá mức độ tổn thương của bệnh. Một trong những biến chứngnghiêm trọng nhất của chứng đau bao tử là ung thư, do đó nhiều khi có dấu hiệunghi ngờ cần phải làm sinh thiết, lấy mẫu bệnh phẩm vùng bị viêm loét để xétnghiệm xác định. Điều trị bệnh này hiện nay tập trung vào hai chủ hướng chính: (1) Điều trị nhiễm trùng vi khuẩn HP. (2) Làm giảm bài tiết chất axit của bao tử cũng như dùng các chất “băng”để bảo vệ niêm mạc nhằm làm giảm đau và giúp vết loét được lành nhanh chóng. Các kết quả nghiên cứu mới cho thấy đối với loại vi khuẩn HP, sửdụng một loại kháng sinh không có hiệu quả mà phải kết hợp ít nhất hai hay baloại kháng sinh. Phổ biến nhất để điều trị HP hiện nay là amoxycilin, clarithromycin vàmetronidazole. Thời gian điều trị kháng sinh trong vòng một tuần. Ngoài ra, cầnkết hợp với ngăn chặn bài tiết axit để thúc đẩy nhanh quá trình lành vết loét... Ngoài điều trị các căn nguyên chủ yếu, loại bỏ yếu tố nguy cơ của chứngđau bao tử cũng là một phương thức gia cố hiệu quả trị liệu. Bệnh nhân cần bỏthuốc lá, hạn chế uống rượu, tránh các loại gia vị mạnh, thức ăn quá chua. Nếutuân thủ đúng quy trình chẩn đoán và điều trị, tỉ lệ chữa khỏi của bệnh nhân bị loéttá tràng cao đến 80%. Tuy nhiên tỉ lệ tái phát trong vòng một năm cũng khá cao, có thể đến 60%.Riêng với bệnh nhân bị loét dạ dày thì 50% không bị tái phát, 50% có nguy cơ táiphát bệnh trong vòng hai năm. Lý do tái phát chủ yếu vẫn là bệnh nhân không tuân thủ quy trình điều trịnghiêm ngặt (khiến vi khuẩn HP kháng thuốc) và nhất là không thay đổi được lốisống, tức không bỏ thuốc lá và không giảm uống rượu. ...