Danh mục

Dấu hiệu nhận biết về bệnh tim mạch

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 190.44 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không có dấu hiệu nào là đặc hiệu cho bệnh tim mạch, việc đánh gia tùy thuộc vào toàn bộ bệnh cảnh lâm sàng và một số trường hợp tùy thuộc vào xét nghiệm chẩn đoán
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dấu hiệu nhận biết về bệnh tim mạchDấu hiệu nhận biết bệnh tim mạchKhông có dấu hiệu nào là đặc hiệu cho bệnh tim mạch, việc đánh gia tùy thuộc vàotoàn bộ bệnh cảnh lâm sàng và một số trường hợp tùy thuộc vào xét nghiệm chẩnđoánMặc dù khám tim mạch thường tập trung vào tim, nhưng các dấu hiệu ngoại biên cũng rấtquan trọng.Biểu hiệnTrong khi các bệnh nhân tim trông có vẻ khỏe mạnh lúc nghỉ ngơi, thì nhiều bệnhnhân nhồi máu cơ tim cấp xuất hiện trong lo lắng và bồn chồn. Vã mồ hôi chứng tỏ hạhuyết áp hoặc tình trạng cường giao cảm, như trong ép tim cấp, rối loạn nhịp nhanh hoặcnhồi máu cơ tim.Các bệnh nhân suy tim ứ trệ nặng hoặc cung lượng tim thấp kéo dài có thể xuất hiện suymòn.Tím có thể là trung ương do mất bão hòa máu động mạch hoặc ngoại biên, phản ánh sựtổn thương phân bố tới tổ chức của máu được bão hòa đầy đủ trong tình trạng cung lượngtim thấp, đa hồng cầu hoặc co thắt mạch ngoại biên. Tím trung ương có thể do phổi, suytim trái hoặc shunt phải – trái gây ra. Tím do shunt phải – trái không được cải thiện khităng nồng độ ôxy trong khí hít vào.Xanh tái thường chứng tỏ thiếu máu nhưng có thể là dấu hiệu của cung lượng tim thấp.Các dấu hiệu sốngMặc dù tần số tim bình thường thay đổi từ 50 – 100 lần/phút, cả nhịp chậm hơn haynhanh hơn có thể xẩy ra ở người bình thường hoặc phản ánh tình trạng ngoài tim như lolắng, đau, tác dụng của thuốc, bệnh tuyến giáp, bệnh phổi thiếu máu hoặc giảm thể tíchmáu.Nếu như các triệu chứng hoặc sự nghi ngờ lâm sàng được xác nhận, nên ghi điện tâmđồ để chẩn đoán rối loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền hoặc các rối loạn khác.Giới hạn huyết áp bình thường khá rộng, nhưng ngay cả ở những người không có triệuchứng cần đánh giá thêm và theo dõi những người này khi huyết áp tâm thu dưới 90mmHg hoặc trên 140 mmHg và huyết áp tâm trương trên 90 mmHg. Ban đầu huyết áp cóthể giảm xuống nếu như bệnh nhân được thư giãn và nghỉ ngơi thoải mái.Khó thở nhanh cũng không đặc hiệu nhưng bệnh phổi và suy tim nên được xem xét khitần số hô hấp vượt quá 16 lần/phút dưới điều kiện bình thường. Thở chu kỳ (kiểuCheynes- stockes) ít thấy trong suy tim nặng.Mạch ngoại biên và sự đập của tĩnh mạchMạch ngoại biên giảm thường do bệnh xơ vữa động mạch ngoại biên gây ra và có thểkèm theo tiếng đập khu trú. Khi thấy mạch đập mất cân đối nên nghi ngờ có hẹp eo độngmạch chủ mà thông tin trước đó cũng có thể có trách nhiệm. Mạch nẩy mạnh có thểchứng tỏ hở chủ, hẹp eo động mạch chủ, còn ống động mạch hoặc các tình trạng khác cótăng thể tích nhát bóp. Mạch cảnh có giá trị giúp đánh giá sự tống máu của thất trái.Mạch đập chậm trong hẹp chủ và chậm nhiều ( hai đỉn có thể sờ được) trong hẹp chủ vàhở chủ hỗn hợp hoặc bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn. Mạch nghịch thường (giảm huyết áptâm thu trong thì hít vào trên 10 mmHg) là dấu hiệu có giá trị trong ép tim, mặc dù nócũng xẩy ra trong hen phế quản và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.Tĩnh mạc cảnh đập cho phép nhìn thấu vào bên trong nhĩ trái. Nó chỉ ra: 1- Áp lực tĩnh mạch trung tâm cao nếu có trên 3 cm thẳng đứng trên góc Louis 2 -Thể tích máu trung ương cao nếu có tăng trên 1cm khi ấn vào hạn sườn phải 30giây 3 – Tắc nghẽn van 3 lá hoặc tĩnh mạch phổi nếu như có sóng cv lớn. Hở van 3 lá cóthể kết hợp với gan đập. Phân ly nhĩ thất do bloc dẫn truyền hoặc rối loạn nhịp thất có thểđược ghi nhận khi có sóng a đại bác cách hồi.Khám phổiNghe thấy ran ở hai đáy phổi là dấu hiệu của suy tim ứ trệ, nhưng cũng có thể do bệnhphổi khu trú gây ra. Ran tít và ran ngáy chứng tỏ bệnh phổi tắc nghẽn, nhưng cũng có thểxẩy ra do suy tim trái. Tràn dịch màng phổi với gõ đục hai đáy phổi và rì rào phế nanggiảm cũng thường gặp trong suy tim ứ trệ.Mạch đập vùng trước timSự nhấp nhô cạnh ức thường chứng tỏ phì đại thất trái, tăng áp động mạch phổi (tâm thu> 50 mmHg) hoặc nhĩ trái to. Sự đập của mạch phổi cũng có thể nhìn thấy. Xung độngmỏm thất trái nếu như kéo dài và rộng, chứng tỏ phì đại hoặc rối loạn chức năng tim. Nếunhư nó rất rõ rệt nhưng không kéo dài, xung động mỏm có thể chứng tỏ quá tải thể tíchhoặc cung lượng tim cao. Sự đập ở vùng trước tim thêm vào có thể phản ánh những bấtthường co bóp thất trái cục bộ.Các tiếng tim và tiếng thổiNghe tim có thể chẩn đoán được hoặc giúp cho chẩn đoán nhiều bệnh tim, kể cả suy tim.Tiếng tim thứ nhất có thể yếu trong rối loạn chức năng thất trái nặng, hoặc mạnh tronghẹp hai lá hoặc PR ngắn. Tiếng thứ hai thường tách đôi với hai thành phần (chủ trướcphổi) và có thể phân tích rõ rệt hơn trong thì hít vào. Sự tách đôi của tiếng thứ hai cố địnhtrong thông liên nhĩ, và rộng trong bloc nhánh phải và mất hoặc đảo ngược (tách đôinghịch thường ) trong hẹp chủ, suy thất trái hay bloc nhánh trái. Với sự tách đôi bìnhthường, thành phần P2 mạnh là dấu hiệu quan trọng của tăng áp động mạch phổi.Tiếng tim thứ ba và thứ tư (nhịp ngựa phi thất và nhĩ tương ứng) chứng tỏ tăng gánh thểtích tâm thất hoặc sự trươn ...

Tài liệu được xem nhiều: