Danh mục

Đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 5

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 140.93 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 6,500 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

2.3.2.1. Đầu tư cho công nghệ chế biến chè đen Nhà máy chè Thanh Ba ( năm 1957) là nhà máy được đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất theo công nghệ OTD (Orthodox) của Liên Xô và chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu phục vụ cho thị trường Đông Âu, và tính đến đầu thập kỉ 90, toàn ngành có 30 nhà máy chế biến hiện đại nằm ở trung tâm các vùng chè lớn. Trong đó có 26 nhà máy lắp đặt thiết bị OTD quy mô công suất từ 13,5 tấn, 24 tấn, 36...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 5Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com 2.3.2.1. Đầu tư cho công nghệ chế biến chè đen Nhà máy chè Thanh Ba ( năm 1957) là nhà máy được đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất theo công nghệ OTD (Orthodox) của Liên Xô và chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu phục vụ cho thị trường Đông Âu, và tính đến đầu thập kỉ 90, toàn ngành có 30 nhà máy chế biến hiện đại nằm ở trung tâm các vùng chè lớn. Trong đó có 26 nhà máy lắp đặt thiết bị OTD quy mô công suất từ 13,5 tấn, 24 tấn, 36 và 42 tấn búp tươi/ ngày. Đến nay, thiết bị này đều đã cũ, sữa chữa nhiều với các thiết bị thay thế trong nước nên đã bộc lộ một số nhược điểm : - Trước hết, các dây chuyền theo công nghệ OTD đều rất cồng kềnh, chiếm diện tích lớn, khả năng cơ giới hoá và tự động hoá trong toàn dây chuyền thấp. Thiếu các thiết bị cân, đong, đo, đếm tự động để thông báo các thông số về độ ẩm, nhiệt độ trong phòng. Các thiết bị tiêu tốn quá nhiều điện năng làm chi phí tăng cao. - Hệ thống chống bụi, hút bụi của nhà máy kém, chất lượng VSCN của ta còn thấp, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. - Đối với các cơ sở chế biến cơ khí và nửa cơ khí có công suất nhỏ ở khu vực do địa phương quản lý, việc đầu tư thiết bị không hoàn thiện lại hư hỏng nặng nên chỉ sản xuất bán thành phẩm, còn nơi nào sản xuất thành phẩm thì chất lượng rất kém. Chính vì vậy sản phẩm VN trong thời kì này chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất sang thị trường Đông Âu - một thị trường tương đối dễ tính - dưới hình thức trả nợ. Thực trạng đó đòi hỏi ngành chè phải có bước đi đúng đắn và kịp thời đáp ứng với nhu cầu của kinh tế thị trường. Các nhà máy chè VN đã đầu tư một cách mạnh mẽ để nâng cao thiết bị, thực hiện cơ khí hoá và tự động hoá nhiều hơn trong dây chuyền sản xuất. Đầu tư máy móc đạt tiêu chuẩn, sản xuất đúng quy trình, thực hiện nghiêm túc vệ sinh an toàn thực phẩm là điều kiện bắtSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com buộc đối với các nhà máy công nghiệp. Năm 1998, TCTy đã cho phép một số đơn vị được dùng vốn KTCB, quỹ đầu tư phát triển để đầu tư mở rộng, nâng cấp các thiết bị nhà xưởng. Công ty chè Đoan Hùng được đầu tư thêm một máy sấy, một máy sàng; Cty chè Phú Sơn đầu tư thêm một máy sàng; Cty chè Trần Phú sử dụng 3,6 tỷ để đầu tư nâng cấp nhà xưởng trong 3 năm kể từ cuối năm 1997. TCTy chè đã chỉ đạo các đơn vị sửa chữa tập trung và chủ động về phụ tùng thay thế, khồng để tình trạng chờ phụ tùng nhập hoặc để máy hỏng như trước. Năm 2002, ngành chè VN đã có những tiến bộ trong đầu tư nâng cấp một số khâu của quá trình chế biến như: Trong khâu làm héo chè: TCty đã thay việc làm héo chè trên sân bằng đầu tư cho phương pháp dùng màng, hốc héo và giàn làm nhiều tầng, vừa tiết kiệm được chi phí vừa đảm bảo chất lượng theo yêu cầu. Đồng thời TCty cũng chỉ đạo Cty cơ khí đầu tư chế tạo thành công hệ thống Monoray cho khâu héo và tiếp liệu cho máy vò, hệ thống gạt phẳng chè trong máy sấy theo thiết bị hiện đại của ấn Độ. Trong công đoạn vò chè và lên men : Một loạt các nhà máy chè đã đầu tư cải tạo hệ thống nhà xưởng, đầu tư thiết bị phun ẩm. Điểm nổi bật trong giai đoạn này là đã đầu tư thay thế hệ thống phun ẩm bép bằng hệ thống phun ẩm đĩa, không những tạo độ ẩm không khí thích hợp mà còn đảm bảo được vệ sinh. Năm 2002, TCty Chè VN đầu tư lắp đặt hệ thống điều khiển nhiệt tự động trong phòng sấy chè. Nhờ hệ thống này, nhiệt độ sấy luôn được đảm bảo ở một mức nhất định, tránh tình trạng khê khét.Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Hệ thống phân loại chè: để sản phẩm không bị lẫn loại. Ngoài ra, để khắc phục nhược điểm chè VN khi hái bị nát vụn, các Cty này cũng đã đầu tư máy cắt cán ba trục thay thế cho các ph ương tiện trước đây. Trước yêu cầu của thị trường đòi hỏi sản phẩm chè chất lượng cao, hương vị đặc trưng và nhất là đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm; cùng với quá trình đầu tư đổi mới công nghệ chế biến chè đen theo công nghệ Orthodox (OTD), ngành chè đã đầu tư nhập dây chuyền chế biến chè đen theo công nghệ CTC ( Crushing - Tearing - Curling) của ấn Độ vào năm 1990.( Xem phụ lục 4). Đến nay, thiết bị này chỉ hoạt động có hiệu quả ở nông trường Tô Hiệu ( Sơn La ), sản phẩm chế biến ra xuất khẩu cho ấn Độ và Đài Loan. Năm 1995, nhập 2 dây chuyền chế biến chè đen theo thiết bị song đôi của ấn độ ( 70% OTD - 30% CTC ). Tổng công suất 24 tấn/ ngày đang được vận hành tại Long Phú ( Hoà Bình ), Hàm Yên ( Tuyên Quang ). Năm 1997, liên doanh chè Phú Bền( Phú Thọ) đầu tư mua 3 dây chuyền CTC của ấn Độ, với công suất 60 tấn / ngày. Năm 1998, đầu tư nhập thêm dây chuyền Hạ Hoà với tổng công suất 30 tấn / ngày, những dây truyền này được trang bị hiện đại, đồng bộ, hoạt động tốt và đ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: