![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 8
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 137.55 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong thời gian từ năm 2000 đến nay, nhiều địa phương đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng rất nhiều nhà máy chế biến. Do không có quy hoạch hợp lý giữa vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến nên dẫn đến nhà máy xây dựng chồng chéo, lấn át nhau. Nếu cộng tổng công suất của nhà máy lại thì rất nhiều địa phương công suất chế biến đều vượt cao hơn so với khả năng cung cấp nguyên liệu. Dẫn đến tình trạng “tranh mua tranh bán”, chất...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 8Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Trong thời gian từ năm 2000 đến nay, nhiều địa phương đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng rất nhiều nhà máy chế biến. Do không có quy hoạch hợp lý giữa vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến nên dẫn đến nhà máy xây dựng chồng chéo, lấn át nhau. Nếu cộng tổng công suất của nh à máy lại thì rất nhiều địa phương công suất chế biến đều vượt cao hơn so với khả năng cung cấp nguyên liệu. Dẫn đến tình trạng “tranh mua tranh bán”, chất lượng nguyên liệu kém, sản phẩm chế biến ra không đạt yêu cầu. Hệ thống quản lý chất lượng vẫn chậm được triển khai do nhận thức về nâng cao chất lượng và kinh phí còn hạn chế. 2.9.3. Về hoạt động đầu tư cho Marketing. Các doanh nghiệp chè VN hầu như chưa quan tâm đến công tác đầu tư nghiên cứu thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thị trường là rất kém. Phương thức nghiên cứu cũng lạc hậu chỉ tập trung vào 2 hình thức: thăm do nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Các mặt hàng chè của ta còn chưa đa dạng, chất lượng không đều và ổn định. Đa số mới chỉ được xuất khẩu để làm hàng đấu trộn dưới thương hiệu của các hãng khác. Trong khi đó thị trường nội tiêu gần như bị bỏ ngỏ. Các hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm.. . tuy đã diễn ra song mức đầu tư còn thấp và tính hiệu quả cũng chưa cao, chưa gây ấn tượng sâu sắc đến người tiêu dùng. 2.9.4. Về đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở các đồi chè còn chưa được đồng bộ và hiện nay đang xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống giao thông liên đồi và hệ thông nối liền các vùng đồi chè. Hệ thống thuỷ lợi kém, nhìn chung các đồi chè chưa chủ động nước tưới, mà chủ yếu trông chờ vào lượng mưa tự nhiên nên vào những năm khô hạn, năng suất và chất lượng vườn chè giảm sút.Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com 2.9.5. Về đầu tư phát triền nguồn nhân lực. Đầu tư cho nguồn nhân lực còn thiếu so với nhu cầu. Trình độ lao động còn yếu về nhiều mặt: công nghệ, thông tin, ngoại ngữ, canh tác kỹ thuật, quản lý.. . Sự phân bố nguồn nhân lực c òn không đồng đều giữa các khu vực TW và địa phương, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. 2.9.6. Nguồn vốn đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư mới chỉ tập trung vào nguồn vốn trong nước thông qua các chương trình kế hoạch Nhà nước. Việc cho vay vốn tín dụng đầu tư còn nhiều trở ngại do thủ tục vay vốn, thời gian vay vốn và thời điểm trả nợ chưa phù hợp với đặc điểm sinh thái của cây chè. Đa số bà con trồng chè là ở các vùng quê nghèo nên vốn đầu tư cho chè còn hết sức hạn chế, chủ yếu là tận dụng công lao động. Đầu tư nước ngoài còn ít chú ý đến ngành chè VN. Đến nay vốn thực hiện mới chỉ đạt 60% so với vốn đã đăng ký. 2.10. Kết luận chung Đầu tư phát triển ngành chè là một công cuộc đầu tư lớn, bao gồm đầu tư từ cơ sở hạ tầng đến khâu kinh tế kỹ thuật xã hội, trải dài trên khắp đất nước ta. Trong những năm qua, Nhà nước và ngành chè đã tập trung để đầu tư cho chè phát triển, để trở thành một trong những trọng điểm phát triển kinh tế kỹ thuật của nền kinh tế Nông nghiệp và Nông thôn ở Việt Nam. Đầu tư phát triển chè góp phần chuyển đổi nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá, phù hợp với xu hướng của thời đại là nền kinh tế thị trường, đồng thời thay đổi tác phong và trình độ nghề nghiệp của người lao động. Nhân dân các dân tộc và nhân dân vùng trung du, vùng núi do phát triển chè mà ổn định nơi ăn, chốn ở; yên tâm với chính sách địnhSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com canh, định cư , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình; tin tưởng vào sự l•nh đạo của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, thu nhập từ cây chè ngày một tăng trưởng, hàng năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn, có khả năng tạo nguồn lực để tái đầu tư cho chè. Thâm canh chè đã mang lại độ phì cho đất trồng, và cây chè không tranh chấp đất trồng với những cây trồng khác, nên đầu tư phát triển chè vẫn có thể đầu tư xen canh với các cây lương thực, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp khác để có được hiệu quả kinh tế cao. Trong điều kiện hiện nay, khi các ngành công nghiệp - dịch vụ ở các tỉnh trung du - miền núi gặp nhiều khó khăn về mọi mặt như vốn sản xuất,công nghệ sản xuất, thị trường tiêu thụ, lao động thất nghiệp ...,khi mà ngân sách trung ương và các tỉnh còn hết sức hạn hẹp, việc đầu tư phát triển nông nghiệp nói chung và ngành chè riêng đã sử dụng sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, trong đó huy động nội lực là chính, là một biện pháp đúng đắn để vừa tận dụng tiềm năng sẵn có của vùng, vừa tận dụng được khả năng sẵn có của ngành, vừa kết hợp với khả năng nguồn lực quốc tế, để phát triển ngành Chè, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 8Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Trong thời gian từ năm 2000 đến nay, nhiều địa phương đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng rất nhiều nhà máy chế biến. Do không có quy hoạch hợp lý giữa vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến nên dẫn đến nhà máy xây dựng chồng chéo, lấn át nhau. Nếu cộng tổng công suất của nh à máy lại thì rất nhiều địa phương công suất chế biến đều vượt cao hơn so với khả năng cung cấp nguyên liệu. Dẫn đến tình trạng “tranh mua tranh bán”, chất lượng nguyên liệu kém, sản phẩm chế biến ra không đạt yêu cầu. Hệ thống quản lý chất lượng vẫn chậm được triển khai do nhận thức về nâng cao chất lượng và kinh phí còn hạn chế. 2.9.3. Về hoạt động đầu tư cho Marketing. Các doanh nghiệp chè VN hầu như chưa quan tâm đến công tác đầu tư nghiên cứu thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thị trường là rất kém. Phương thức nghiên cứu cũng lạc hậu chỉ tập trung vào 2 hình thức: thăm do nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Các mặt hàng chè của ta còn chưa đa dạng, chất lượng không đều và ổn định. Đa số mới chỉ được xuất khẩu để làm hàng đấu trộn dưới thương hiệu của các hãng khác. Trong khi đó thị trường nội tiêu gần như bị bỏ ngỏ. Các hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm.. . tuy đã diễn ra song mức đầu tư còn thấp và tính hiệu quả cũng chưa cao, chưa gây ấn tượng sâu sắc đến người tiêu dùng. 2.9.4. Về đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở các đồi chè còn chưa được đồng bộ và hiện nay đang xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống giao thông liên đồi và hệ thông nối liền các vùng đồi chè. Hệ thống thuỷ lợi kém, nhìn chung các đồi chè chưa chủ động nước tưới, mà chủ yếu trông chờ vào lượng mưa tự nhiên nên vào những năm khô hạn, năng suất và chất lượng vườn chè giảm sút.Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com 2.9.5. Về đầu tư phát triền nguồn nhân lực. Đầu tư cho nguồn nhân lực còn thiếu so với nhu cầu. Trình độ lao động còn yếu về nhiều mặt: công nghệ, thông tin, ngoại ngữ, canh tác kỹ thuật, quản lý.. . Sự phân bố nguồn nhân lực c òn không đồng đều giữa các khu vực TW và địa phương, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. 2.9.6. Nguồn vốn đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư mới chỉ tập trung vào nguồn vốn trong nước thông qua các chương trình kế hoạch Nhà nước. Việc cho vay vốn tín dụng đầu tư còn nhiều trở ngại do thủ tục vay vốn, thời gian vay vốn và thời điểm trả nợ chưa phù hợp với đặc điểm sinh thái của cây chè. Đa số bà con trồng chè là ở các vùng quê nghèo nên vốn đầu tư cho chè còn hết sức hạn chế, chủ yếu là tận dụng công lao động. Đầu tư nước ngoài còn ít chú ý đến ngành chè VN. Đến nay vốn thực hiện mới chỉ đạt 60% so với vốn đã đăng ký. 2.10. Kết luận chung Đầu tư phát triển ngành chè là một công cuộc đầu tư lớn, bao gồm đầu tư từ cơ sở hạ tầng đến khâu kinh tế kỹ thuật xã hội, trải dài trên khắp đất nước ta. Trong những năm qua, Nhà nước và ngành chè đã tập trung để đầu tư cho chè phát triển, để trở thành một trong những trọng điểm phát triển kinh tế kỹ thuật của nền kinh tế Nông nghiệp và Nông thôn ở Việt Nam. Đầu tư phát triển chè góp phần chuyển đổi nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá, phù hợp với xu hướng của thời đại là nền kinh tế thị trường, đồng thời thay đổi tác phong và trình độ nghề nghiệp của người lao động. Nhân dân các dân tộc và nhân dân vùng trung du, vùng núi do phát triển chè mà ổn định nơi ăn, chốn ở; yên tâm với chính sách địnhSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com canh, định cư , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình; tin tưởng vào sự l•nh đạo của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, thu nhập từ cây chè ngày một tăng trưởng, hàng năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn, có khả năng tạo nguồn lực để tái đầu tư cho chè. Thâm canh chè đã mang lại độ phì cho đất trồng, và cây chè không tranh chấp đất trồng với những cây trồng khác, nên đầu tư phát triển chè vẫn có thể đầu tư xen canh với các cây lương thực, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp khác để có được hiệu quả kinh tế cao. Trong điều kiện hiện nay, khi các ngành công nghiệp - dịch vụ ở các tỉnh trung du - miền núi gặp nhiều khó khăn về mọi mặt như vốn sản xuất,công nghệ sản xuất, thị trường tiêu thụ, lao động thất nghiệp ...,khi mà ngân sách trung ương và các tỉnh còn hết sức hạn hẹp, việc đầu tư phát triển nông nghiệp nói chung và ngành chè riêng đã sử dụng sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, trong đó huy động nội lực là chính, là một biện pháp đúng đắn để vừa tận dụng tiềm năng sẵn có của vùng, vừa tận dụng được khả năng sẵn có của ngành, vừa kết hợp với khả năng nguồn lực quốc tế, để phát triển ngành Chè, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
bố cục của luận văn luận văn kinh tế đề cương luận văn mẫu luận văn đại học cách viết luận vănTài liệu liên quan:
-
Đề tài Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất'
35 trang 219 0 0 -
Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ thế giới và các loại hình hiện nay ở Việt Nam -4
8 trang 205 0 0 -
Luận văn tốt nghiệp: Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương VN-thực trạng và giải pháp
37 trang 200 0 0 -
Khóa luận tốt nghiệp: Môi trường đầu tư bất động sản Việt Nam: thực trạng và giải pháp
83 trang 189 0 0 -
22 trang 179 0 0
-
Đề tài: Tìm hiểu về thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam
47 trang 177 0 0 -
LUẬN VĂN: Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất
29 trang 168 0 0 -
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng tranh chấp lao động ở Việt Nam
23 trang 157 0 0 -
Giải pháp vè kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất khẩu tại Vietcombank Hà nội - 1
10 trang 154 0 0 -
Luận văn: Nâng cao năng lực cạnh tranh trong dài hạn bằng việc củng cố thị phần trong phân phối
61 trang 152 0 0