Đầu tư trực tiếp (FDI) của nhật bản ở Ấn Độ (1991-2011)
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 340.86 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Triển vọng đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ được dự báo là rất lớn trong những thập niên tới. Bài viết nghiên cứu quá trình đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ kể từ sau Chiến tranh lạnh và rút ra bài học về thu hút đầu tư FDI ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đầu tư trực tiếp (FDI) của nhật bản ở Ấn Độ (1991-2011)UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.2, NO.1 (2012) ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP (FDI) CỦA NHẬT BẢN Ở ẤN ĐỘ (1991-2011) Nguyễn Văn Sang* TÓM TẮT Quan hệ Nhật Bản và Ấn Độ được thúc đẩy hơn nữa kể từ khi Chiến tranh lạnh kếtthúc. Sau 20 năm, Nhật Bản trở thành quốc gia đứng đầu về viện trợ phát triển chính thức ODAvà thứ 4 về đầu tư trực tiếp (FDI) ở Ấn Độ. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Ấn Độ chú trọngtrong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng. Chính bằngnguồn vốn FDI, Nhật Bản đã tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Ấn Độ.Triển vọng đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ được dự báo là rất lớn trong những thập niên tới.Bài viết nghiên cứu quá trình đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ kể từ sau Chiến tranh lạnh vàrút ra bài học về thu hút đầu tư FDI ở Việt Nam.1. Đặt vấn đề Nhật Bản và Ấn Độ là hai nền kinh tế lớn ở Châu Á. Năm 1957, Nhật Bản chínhthức thiết lập quan hệ kinh tế với Ấn Độ. Kể từ đó, quan hệ kinh tế Nhật - Ấn đạt đượcnhững bước tiến quan trọng thông qua viện trợ phát triển chính thức (ODA) của NhậtBản cho Ấn Độ. Sau năm 1991, khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cải cách kinh tế bắtđầu được thực hiện mạnh mẽ, Ấn Độ đã mở rộng thu hút đầu tư từ nước ngoài nhằmphục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản trongthời điểm đó phù hợp với nhu cầu và từng bước khẳng định vai trò ngày càng lớn trongtiến trình phát triển kinh tế xã hội của Ấn Độ.2. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản ở Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh2.1. Các nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, chính phủ Ấn Độ đã thực hiện đồng loạt cácchính sách tạo điều kiện để Nhật Bản mở rộng quan hệ đầu tư. Chính phủ Ấn Độ đưa rasáng kiến “bãi bỏ việc kiểm soát công nghiệp, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tự do hóachính sách thương mại, cam kết đầy đủ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cải cách lĩnh vựctài chính, tự do hóa các quy định về trao đổi..., để cung cấp một môi trường đầu tư thânthiện, tự do và thu hút các nhà đầu tư” [2]. Chính phủ Ấn Độ còn sáng lập Ban Thư kýHỗ trợ phát triển công nghiệp; các website để phổ biến chính sách, thủ tục đầu tư; tổchức các sự kiện và các diễn đàn kinh tế tại các quốc gia có tiềm năng nhằm quảng bámôi trường đầu tư ở Ấn Độ. Cơ quan Hợp tác đầu tư nước ngoài của Ấn Độ (FIIA) rađời và hoạt động với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án.FIIA là một diễn đàn giúp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đầu tư một cách hiệuquả. Chính phủ Ấn Độ cũng nỗ lực tiến hành một loạt các biện pháp như: “Các dự ánnguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực hàng không nội địa tăng từ 40%đến 49%, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lên đến 100% được cho phép đầu tư tronglĩnh vực phát triển xây dựng, xây dựng nhà ở và đô thị. Đối với các dịch vụ viễn thôngcó vốn đầu tư nước ngoài lên đến 74% cũng đã được chính phủ phê duyệt cho phép đầu 71TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 2, SỐ 1 (2012)tư” [2]. Ngoài ra, các thủ tục về cư trú của công dân nước ngoài như chuyển đổi từ côngdân thường trú sang tạm trú cũng đã được đơn giản hóa và linh hoạt thay đổi tùy thuộcvào chính sách đối với FDI trên các lĩnh vực có liên quan. Chính phủ Ấn Độ đã thànhlập tổ chức chuyên dụng “Tế bào Nhật Bản” trong các bộ (sở). Tổ chức này cho phépcác doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư ở Ấn Độ có thể tìm kiếm được sự hỗ trợ được tốtnhất đối với những vấn đề liên quan đến việc đầu tư. Chính phủ Ấn Độ còn cố gắng cải thiện môi trường đầu tư thông qua đối thoạitrực tiếp với chính phủ Nhật Bản. Chính phủ hai nước đã đi đến ký biên bản sửa đổihiệp ước về thuế thu nhập ngày 24/2/2006 tại Tokyo. Biên bản này có hiệu lực làmgiảm 10% tỷ lệ khấu trừ thuế đối với lãi cổ phần, tiền lãi, tiền bản quyền và phí dịch vụkỹ thuật thanh toán giữa hai nước. Hơn nữa, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, cácnhà đầu tư Nhật Bản nhìn thấy ở Ấn Độ triển vọng về một thị trường địa phương với chiphí lao động thấp và sự dồi dào của lực lượng lao động tay nghề cao. Theo khảo sát củaNgân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) năm 2008, Ấn Độ là quốc gia đầu tư dàihạn ưa thích nhất của các doanh nghiệp Nhật Bản. Tiềm năng về thị trường địa phương,nguồn nhân lực chất lượng cao đã được liệt kê như những lý do hàng đầu cho Ấn Độ làmột điểm hấp dẫn. Vì vậy, chính phủ Nhật Bản và các cơ quan liên quan đã chủ độngthúc đẩy đầu tư của Nhật Bản vào thị trường Ấn Độ. Nhật Bản đã thành lập Tổ chứcNghiên cứu Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) được thành lập để nghiên cứu thịtrường và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đầu tư trực tiếp (FDI) của nhật bản ở Ấn Độ (1991-2011)UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.2, NO.1 (2012) ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP (FDI) CỦA NHẬT BẢN Ở ẤN ĐỘ (1991-2011) Nguyễn Văn Sang* TÓM TẮT Quan hệ Nhật Bản và Ấn Độ được thúc đẩy hơn nữa kể từ khi Chiến tranh lạnh kếtthúc. Sau 20 năm, Nhật Bản trở thành quốc gia đứng đầu về viện trợ phát triển chính thức ODAvà thứ 4 về đầu tư trực tiếp (FDI) ở Ấn Độ. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Ấn Độ chú trọngtrong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng. Chính bằngnguồn vốn FDI, Nhật Bản đã tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Ấn Độ.Triển vọng đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ được dự báo là rất lớn trong những thập niên tới.Bài viết nghiên cứu quá trình đầu tư FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ kể từ sau Chiến tranh lạnh vàrút ra bài học về thu hút đầu tư FDI ở Việt Nam.1. Đặt vấn đề Nhật Bản và Ấn Độ là hai nền kinh tế lớn ở Châu Á. Năm 1957, Nhật Bản chínhthức thiết lập quan hệ kinh tế với Ấn Độ. Kể từ đó, quan hệ kinh tế Nhật - Ấn đạt đượcnhững bước tiến quan trọng thông qua viện trợ phát triển chính thức (ODA) của NhậtBản cho Ấn Độ. Sau năm 1991, khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cải cách kinh tế bắtđầu được thực hiện mạnh mẽ, Ấn Độ đã mở rộng thu hút đầu tư từ nước ngoài nhằmphục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản trongthời điểm đó phù hợp với nhu cầu và từng bước khẳng định vai trò ngày càng lớn trongtiến trình phát triển kinh tế xã hội của Ấn Độ.2. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản ở Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh2.1. Các nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp FDI của Nhật Bản ở Ấn Độ Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, chính phủ Ấn Độ đã thực hiện đồng loạt cácchính sách tạo điều kiện để Nhật Bản mở rộng quan hệ đầu tư. Chính phủ Ấn Độ đưa rasáng kiến “bãi bỏ việc kiểm soát công nghiệp, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tự do hóachính sách thương mại, cam kết đầy đủ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cải cách lĩnh vựctài chính, tự do hóa các quy định về trao đổi..., để cung cấp một môi trường đầu tư thânthiện, tự do và thu hút các nhà đầu tư” [2]. Chính phủ Ấn Độ còn sáng lập Ban Thư kýHỗ trợ phát triển công nghiệp; các website để phổ biến chính sách, thủ tục đầu tư; tổchức các sự kiện và các diễn đàn kinh tế tại các quốc gia có tiềm năng nhằm quảng bámôi trường đầu tư ở Ấn Độ. Cơ quan Hợp tác đầu tư nước ngoài của Ấn Độ (FIIA) rađời và hoạt động với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án.FIIA là một diễn đàn giúp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đầu tư một cách hiệuquả. Chính phủ Ấn Độ cũng nỗ lực tiến hành một loạt các biện pháp như: “Các dự ánnguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực hàng không nội địa tăng từ 40%đến 49%, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lên đến 100% được cho phép đầu tư tronglĩnh vực phát triển xây dựng, xây dựng nhà ở và đô thị. Đối với các dịch vụ viễn thôngcó vốn đầu tư nước ngoài lên đến 74% cũng đã được chính phủ phê duyệt cho phép đầu 71TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 2, SỐ 1 (2012)tư” [2]. Ngoài ra, các thủ tục về cư trú của công dân nước ngoài như chuyển đổi từ côngdân thường trú sang tạm trú cũng đã được đơn giản hóa và linh hoạt thay đổi tùy thuộcvào chính sách đối với FDI trên các lĩnh vực có liên quan. Chính phủ Ấn Độ đã thànhlập tổ chức chuyên dụng “Tế bào Nhật Bản” trong các bộ (sở). Tổ chức này cho phépcác doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư ở Ấn Độ có thể tìm kiếm được sự hỗ trợ được tốtnhất đối với những vấn đề liên quan đến việc đầu tư. Chính phủ Ấn Độ còn cố gắng cải thiện môi trường đầu tư thông qua đối thoạitrực tiếp với chính phủ Nhật Bản. Chính phủ hai nước đã đi đến ký biên bản sửa đổihiệp ước về thuế thu nhập ngày 24/2/2006 tại Tokyo. Biên bản này có hiệu lực làmgiảm 10% tỷ lệ khấu trừ thuế đối với lãi cổ phần, tiền lãi, tiền bản quyền và phí dịch vụkỹ thuật thanh toán giữa hai nước. Hơn nữa, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, cácnhà đầu tư Nhật Bản nhìn thấy ở Ấn Độ triển vọng về một thị trường địa phương với chiphí lao động thấp và sự dồi dào của lực lượng lao động tay nghề cao. Theo khảo sát củaNgân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) năm 2008, Ấn Độ là quốc gia đầu tư dàihạn ưa thích nhất của các doanh nghiệp Nhật Bản. Tiềm năng về thị trường địa phương,nguồn nhân lực chất lượng cao đã được liệt kê như những lý do hàng đầu cho Ấn Độ làmột điểm hấp dẫn. Vì vậy, chính phủ Nhật Bản và các cơ quan liên quan đã chủ độngthúc đẩy đầu tư của Nhật Bản vào thị trường Ấn Độ. Nhật Bản đã thành lập Tổ chứcNghiên cứu Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) được thành lập để nghiên cứu thịtrường và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển chính thức ODA Triển vọng đầu tư FDI Đầu tư trực tiếp Cuộc cải cách kinh tế Phát triển kinh tế xã hộiGợi ý tài liệu liên quan:
-
45 trang 145 0 0
-
11 trang 96 0 0
-
Phát triển bền vững và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
3 trang 53 0 0 -
Giải bài Các nước Châu Á SGK Lịch sử 9
3 trang 40 0 0 -
Kết quả thực thi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại tỉnh Lào Cai
8 trang 38 0 0 -
Nghị quyết số: 19/2013/NQ-HĐND
7 trang 37 0 0 -
Giáo dục truyền thống yêu nước cho sinh viên Việt Nam dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
9 trang 37 0 0 -
29 trang 34 0 0
-
38 trang 33 0 0
-
Giải pháp tạo quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
14 trang 33 0 0