Danh mục

Đề cương bài giảng Phong cách học Tiếng Việt hiện đại (Phần 2) - Nguyễn Thế Truyền

Số trang: 87      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.04 MB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 36,000 VND Tải xuống file đầy đủ (87 trang) 0
Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đề cương bài giảng Phong cách học Tiếng Việt hiện đại (Phần 2) - Nguyễn Thế Truyền trình bày những vấn đề về các phép tu từ của Tiếng Việt; các phép tu từ ngữ âm, các phép tu từ từ vựng – ngữ pháp. Hi vọng tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn đang theo học chuyên ngành xã hội nói chung cũng như ngành sư phạm Ngữ văn nói riêng có thêm nguồn tư liệu để tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề cương bài giảng Phong cách học Tiếng Việt hiện đại (Phần 2) - Nguyễn Thế Truyền Nói chung, ngôn ngữ báo chí cần phải ngắn. Ngôn ngữ chính luận thường dài. 1. CÂU NGẮN «Câu ngắn thường có đặc điểm rõ ràng, sáng sủa, thích hợp với việc miêu tả những hoạt động, những sự kiện dồn dập cùng xuất hiện. Âm điệu của câu ngắn mang tính chất khẩn trương, mạnh mẽ. » [Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231] Ví dụ : Đi đầu quân. Đi đầu quân Tất cả cho tiền tuyến! Mau lên đi ! Hỡi các anh trai làng ! (Hoàng Việt, Lá xanh) Câu ngắn thích hợp cho việc khẳng định hay phủ định một ý kiến nào đó trong văn bản chính luận. Trong văn xuôi tiếng Việt, nhà văn Nguyễn Công Hoan và Chủ tịch Hồ Chí Minh là những người thích viết câu ngắn. 2. CÂU DÀI «Câu dài thường có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều thành phần câu, thích hợp với việc miêu tả một khung cảnh rộng lớn, những suy tưởng, cảm xúc kéo dài, những độc thoại trữ tình tha thiết. » [Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231] Câu dài có sức tải lớn, dùng để diễn tả những lý lẽ cần được trình bày cụ thể. Vì vậy nó xuất hiện nhiều trong phong cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ khoa học. 135 PHẦN IV CÁC PHÉP TU TỪ CỦA TIẾNG VIỆT CHƯƠNG I CÁC PHÉP TU TỪ NGỮ ÂM Là những phép tu từ sử dụng chất liệu ngữ âm để tạo ra hiệu quả diễn đạt đặc biệt. Những phép tu từ ngữ âm thường được sử dụng: tượng thanh, điệp thanh, điệp âm, điệp vần, hài âm. I. TƯỢNG THANH (ONAMATOPOEIA) 1. Khái niệm Tượng thanh là phép tu từ mô phỏng âm thanh của thực tế bằng cách dùng những yếu tố ngữ âm có dáng vẻ tương tự. Gió đập cành tre khua lắc cắc Sóng dồn mặt nước vỗ long bong. (Hồ Xuân Hương, Hang cắc cớ) 2. Phân loại Có hai loại: tượng thanh trực tiếp và tượng thanh gián tiếp. 2.1. Tượng thanh trực tiếp Tượng thanh trực tiếp là cách thức biểu hiện âm thanh thực tế bằng từ tượng thanh. Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh, như: ầm ầm, loong coong, tí tách, cộp, bịch, bốp, ... Mỗi từ tượng thanh đều liên quan đến một âm thanh nhất định, như tiếng mưa rơi lộp bộp, tiếng trống thì thùng, tiếng đồng hỗ gõ tích tắc, tiếng lợn kêu eng éc. Cùng một âm thanh trong thực tế nhưng cách mô tả âm thanh đó lại khác nhau giữa các ngôn ngữ. L. Uspenski viết: “Hãy lấy một con vịt bình thường làm ví dụ người Nga chúng ta cho rằng con vịt này nó kêu kriskrja, còn theo người Pháp tiếng kêu của con vịt ấy phải là kuen – kuen” (3, 61 – 62) (Tất nhiên người Việt lại nghĩ con vịt ấy kêu cạc cạc). Ngay trong cùng một ngôn ngữ có thể có những từ tượng thanh khác nhau diễn đạt cùng một nội dung hay với những nội dung gần nhau. Chẳng hạn, trong tiếng Việt để diễn đạt tiếng kêu của gà có từ cục tác, tục tác; tiếng kêu của vịt: cạc cạc, quạc quạc; tiếng khóc trẻ con: oa oa, oe oe v.v… Trong tiếng Hán, từ tượng thanh còn gọi là từ tự thanh (từ giống với âm thanh), là từ loại đặc thù trong tiếng Hán, không thuộc thực từ cũng không thuộc hư từ. Trong tiếng Việt, từ tượng thanh rất phong phú (khoảng 700 từ) và được xếp vào từ loại tính từ. Từ tượng thanh làm cho việc biểu đạt ngôn ngữ thêm sinh động, hình tượng. 136 Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh gà. Chí cha chí chát khua giầy dép Đen thủi đen thui cũng lượt là. (Tú Xương, Xuân) Xét về ngữ pháp, từ tượng thanh có thể dùng độc lập để tạo thành một câu đặc biệt. Róc rách! Róc rách! Nước luồn qua khóm trúc Lá rơi! Lá rơi! Xoay tròn nước cuốn trôi (Hoàng Việt, Nhạc rừng) Khi tham gia vào trong câu với những từ khác, từ tượng thanh có thể làm vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ. Ví dụ: + Làm vị ngữ: Tiệc bày thưởng tướng, khao binh, Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. (Nguyễn Du. Truyện Kiều) + Làm bổ ngữ: Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt, Chị Dậu rón rén bưng lên một bát lớn đến chỗ chồng nằm. (Ngô Tất Tố, Tắt đèn) Từ tượng thanh thường dùng nhiều trong khẩu ngữ hoặc văn viết mang tính miêu tả. Ví dụ: Mưa đến rồi, lẹt đẹt … lẹt đẹt … mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống mái phên nứa: mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng tượng được là mưa kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ là bao nhiêu nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào bụi cây. Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tỏa trắng xóa. Trong nhà bỗng tối sầm, một mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mác của những trận mưa mới đầu mùa. Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ …. (Tồ Hoài, Mưa rào) Trong ngôn ngữ nghị luận hoặc thuyết minh thường không dùng loại từ này. 2.2. Tượng thanh gián tiếp Tượng thanh gián tiếp là cách thức mô phỏng, tái hiện âm thanh thực tế bằng một ấn tượng, biểu tượng âm thanh qua nhịp điệu, tiết tấu của câu thơ, câu văn. Ví dụ: Cúc cu! Cúc cu!Chim rừng ca trong nắng Im nghe! Im nghe!Ve rừng kêu liên miên Rừng hát gió lay trên cành biếc Lao xao! Rì rào!Dòng suối uốn quanh làn nước trôi trong xanh (Hoà ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: