Lao màng não (LMN) xuất hiện khi vi khuẩn lao đi theo đường máu đến tấn công não và màng não. Căn bệnh này xảy ra ở mọi lứa tuổi. Ở người lớn, lao màng não thường gặp ở lứa tuổi 20-50, nam bị nhiều hơn nữ. Ở trẻ em, bệnh tập trung ở lứa tuổi 1-5.Virus Herpes một nguyên nhân gây viêm não. Dù chỉ chiếm 5% tổng số các ca lao, nhưng LMN là thể lao ngoài phổi có tiên lượng nặng, tỷ lệ tử vong cao và thường để lại di chứng nặng: nếu nhập viện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dễ nhầm lao màng não với viêm não Dễ nhầm lao màng não với viêm nãoLao màng não (LMN) xuất hiện khi vi khuẩnlao đi theo đường máu đến tấn công não vàmàng não. Căn bệnh này xảy ra ở mọi lứatuổi. Ở người lớn, lao màng não thường gặpở lứa tuổi 20-50, nam bị nhiều hơn nữ. Ở trẻem, bệnh tập trung ở lứa tuổi 1-5. Virus Herpes một nguyên nhân gây viêm não.Dù chỉ chiếm 5% tổng số các ca lao, nhưngLMN là thể lao ngoài phổi có tiên lượng nặng,tỷ lệ tử vong cao và thường để lại di chứngnặng: nếu nhập viện muộn (khi đã hôn mê sâu),tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân LMN lên đến 70-80%. Những người còn sống có thể gặp nhữngbiến chứng nặng nề như: sống thực vật, độngkinh, mù mắt, liệt dây thần kinh 3 hoặc 4, liệtnửa người hoặc 2 chi dưới, thiểu năng trí tuệ,thay đổi tính tình, béo phì, vô kinh ở nữ giới, đáitháo nhạt...Bệnh LMN khởi đầu với những triệu chứngkhông đặc hiệu: nhức đầu, chóng mặt, ù tai; cóngười bị co giật khu trú, liệt, nói nhảm, buồnbã... khá giống với các bệnh thông thường nhưcảm cúm, rối loạn tiền đình, viêm xoang, rốiloạn tâm lý. Nhìn chung, các triệu chứng bệnh ởgiai đoạn này ít nhận biết được, dễ bỏ qua.Khi bệnh tiến triển, tùy thuộc vào thời gian mắcbệnh sớm hay muộn mà các triệu chứng củaLMN có thể rất nghèo nàn hoặc phong phú. Tuynhiên, các dấu hiệu viêm màng não điển hìnhngày càng đầy đủ và rõ như: sốt cao kéo dài,tăng lên về chiều tối; nhức đầu khu trú hoặc lantỏa, liên tục hoặc thành từng cơn, âm ỉ hoặc dữdội và tăng lên khi có những kích thích tiếngđộng hoặc ánh sáng (nhức đầu kết hợp với tăngtrương lực cơ làm bệnh nhân hay nằm ở tư thếco người, quay mặt vào trong tối); nôn (khi tăngáp lực nội sọ) tự nhiên, nôn vọt không liên quantới bữa ăn; rối loạn tiêu hoá như táo bón hoặctiêu chảy; đau bụng, đau các khớp, đau ở cộtsống phối hợp với đau ở các chi; rối loạn cơ thắtgây bí đái, tiểu tiện hoặc đại tiểu tiện không tựchủ; liệt các dây thần kinh sọ, liệt các chi, cáccơn động kinh cục bộ hoặc toàn thể, các biểuhiện rối loạn tâm thần.Các biểu hiện rối loạn ý thức có thể có với mứctừ nhẹ đến nặng (hôn mê). Do các biểu hiện nàycũng gặp ở các bệnh về não khác như u não,xuất huyết não, màng não, viêm màng não mủ,viêm màng não do nấm... nên bệnh nhân vàngay cả thầy thuốc cũng chẩn đoán nhầm, tậptrung điều trị các bệnh về não mà bỏ qua việcđiều trị lao.Trong LMN, vi khuẩn lao có thể gây ra nhữnghình thái tổn thương sau: gây viêm và làm tổnthương màng não, chủ yếu màng não ở khu vựcnền sọ; gây viêm và làm hẹp động mạch cungcấp máu nuôi dưỡng não do đó có thể gây tổnthương một vùng của não; gây rối loạn lưuthông của não thất. Do đó muốn điều trị bệnh cókết quả tốt thì cần chẩn đoán và điều trị bệnh ởgiai đoạn sớm. Vì ở giai đoạn này tổn thương ởmàng não và não nhẹ có thể phục hồi chức năngtốt sau quá trình điều trị.Thực ra, việc chẩn đoán xác định LMN là mộtviệc không dễ dàng. Phương pháp xác định hiệuquả nhất (cấy vi khuẩn) cũng chỉ cho kết quảsau 2 tháng và có tới 50% trường hợp bị âm tínhgiả (có bệnh nhưng xét nghiệm không tìm ra vikhuẩn). Căn bệnh này lại chưa có vaccin phòngngừa đặc hiệu. Chính vì thế, để phòng bệnh, khithấy cơ thể có những triệu chứng nhức đầu,chóng mặt, ù tai kéo dài, bệnh nhân nên đếnbệnh viện để kiểm tra sức khỏe. Đặc biệt, nhữngngười đã mắc các thể lao khác (như lao phổi, laohạch, lao tiết niệu, lao xương...); những ngườikhông tiêm BCG, sức đề kháng suy giảm do suydinh dưỡng, sau nhiễm virut , nhiễm HIV, đáitháo đường… cần tuân thủ tốt các hướng dẫnđiều trị, có chế độ dinh dưỡng đầy đủ, khônglàm việc quá sức để vi khuẩn lao không có cơhội tấn công não.Cũng như các bệnh lao khác, LMN nếu đượcphát hiện sớm, dùng các thuốc điều trị lao đặchiệu và các biện pháp hồi sức tích cực, việcchẩn đoán và điều trị bệnh ngày càng đạt đượckết quả khả quan, tỷ lệ tử vong và di chứng dobệnh đã giảm đáng kể. ...