Danh mục

Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên

Số trang: 28      Loại file: doc      Dung lượng: 138.00 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhằm giúp các bạn nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và phân bố loài Hoàng Liên ô rô tai khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài 'Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên'. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên 1. Tên ý tưởng        “ Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật   ban đầu để  gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis   DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên “ 2. Mục tiêu của ý tưởng ­ Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và phân bố loài Hoàng Liên ô  rô tai khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên. ­ Từ kết quả nghiên cứu làm cơ sở dữ liệu tổng hợp và hệ  thống   về các đặc điểm sinh vật học và kỹ thuật nhân giống vô tính loài  Hoàng liên ô rô phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về loài. 3. Tổng quan nghiên cứu 3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới        3.1.1. Phân loại và phân bố chi Mahonia trên thế giới        ­Phân loại: Hoàng liên ô rô (HLOR) – còn gọi là cây Mật gấu, Mã hồ, Hoàng bá  gai, Thích hoàng bá, Thập  đại công lao... có tên khoa học là  Mahonia  nepalensis  DC. thuộc họ  Hoàng liên gai (Berberidaceae), bộ  Mao lương   (Ranunculales). Theo Ying Junsheng (2001), họ  Hoàng liên gai (Berberidaceae)  có 17  chi và khoảng 650 loài, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới phía Bắc và vùng  miền núi á nhiệt đới. Riêng  ở  Trung Quốc, có tới 11 chi và 303 loài. Chi  Mahonia có gần 60 loài, phân bố ở Đông Á và Đông Nam Á, phía Tây của  Bắc Mỹ, vùng Trung Mỹ, và phía Tây của Nam Mỹ. ­ Phân bố của chi Mahonia và loài HLOR Chi Mahonia bao gồm khoảng 60 loài cây bụi, gỗ  nhỏ  thường xanh.   Chi này có quan hệ  chặt chẽ  với chi Berberis. Chính vì vậy, nhiều nhà  thực vật học không tán thành việc chấp nhận tên chi Mahonia nên đã xếp  chi Mahonia vào cùng với chi Berberis vì một số  loài thuộc hai chi này có  thể lai giống với nhau. Tuy nhiên, chi Mahonia có lá kép lông chim lớn dài  từ  10­50 cm, với từ  5­15 lá chét và hoa mọc thành các cành (dài từ  5­20  cm). Tên chi Mahonia được đặt theo Bernard McMahon (1775­1818), một  người làm vườn ở Philadelphia, Hoa Kỳ. Phân bố HLOR ở một số quốc gia châu Á: + Trung Quốc:  Theo Ying Junsheng (2001),  ở  Trung Quốc có tới 31  loài thuộc chi Mahonia, trong đó loài HLOR (M. nepalensis DC.) xuất hiện  ở trong rừng rậm, bìa rừng hoặc trong các bụi cây ở độ cao từ 1200­3000  m. Phân bố  ở tỉnh Hồ  Nam, Nam Tứ Xuyên, Đông Tây Tạng và tỉnh Vân   Nam. + Bhutan: Theo Chhetri (1989), ở Bhutan, M. nepalensis DC. phân bố ở  độ cao 1500­2400m, gần những dòng suối nhỏ, dưới những cây bụi khác.  Thời kỳ ra hoa từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. + Ấn Độ và Nepal: Phân bố ở những khu vực núi cao trên 1500m. + Những nơi khác: M. nepalensis DC. là cây cho hoa màu vàng, mọc  thành cành khá đẹp nên được gây trồng làm cảnh  ở  nhiều nơi. Mặc dù   loài cây này chỉ có phân bố tự nhiên ở một số nước Châu Á (Trung Quốc,   Nê­pan, Việt Nam) nhưng nó đã được gây trồng ở nhiều nơi khác ở Đông   Nam   Á   (Indonesia,   Malaysia   và   Myanmar),   Sri­Lanka   và   một   số   nước   ngoài châu Á như Úc và miền Nam Châu Âu. Thực tế  đã cho thấy, việc cung cấp thực vật cho dược phẩm truyền   thống không thỏa mãn được nhu cầu (Cunningham, 1993). Do vậy, một   giải   pháp   thay   thế   thích   hợp   nhất   cho   những   vấn   đề   mà   ngành   công   nghiệp dược đang phải đối mặt đó là phát triển hệ  thống nuôi  In Vitro  nhằm đáp ứng nhu cầu về dược thảo và các chất tiết của nó (Nalawade et   al, 2004). Cùng với sự phát triển của công nghê sinh học, việc nhân giống   các loài cây dược liệu bằng phương pháp In Vitro đã được nhiều nơi trên  thế  giới, đặc biệt là  ở  Trung Quốc,  Ấn Độ, Đài Loan,... tiến hành và đã   đem lại kết quả đáng khích lệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của   việc sản xuất dược liệu (Arora, 1989). Trong tương lai, để  phục vụ  cho  mục đích sức khỏe con người và sự phát triển của xã hội, nhằm chống lại  các bệnh nan y thì cần thiết có sự kết hợp giữa Đông và Tây y, giữa y học  hiện đại và kinh nghiệm cổ truyền dân tộc. Vì vậy, việc khai thác kết hợp   với bảo tồn các lại cây thuốc là điều hết sức cần thiết. 3.1.2. Việc sử dụng loài cây HLOR làm thuốc HLOR là cây dược liệu dùng để  chữa bệnh. Tác dụng trị  bệnh đã được   ghi trong bộ  sách  Thần nông bản thảo  của Trung Quốc như  một loại  thuốc được xếp vào hàng thương phẩm.  Ở  Trung Quốc, người ta cũng  dùng lá, thân và quả  của một loài tương tự  có tên khoa học là   Mahonia   bealei (Fort) Carr. gọi là Khoát diệp thập đại công lao hay Thổ  hoàng bá  để làm thuốc chữa bệnh (Xiuhong Ji et al., 2000). Các bộ tộc Khasi và Garo của Meghalaya (Ấn Độ) đã sử  dụng vỏ  cây  tươi của HLOR ép lấy dịch, rồi pha loãng với nước, dùng như thuốc nhỏ  mắt cho nhiều bệnh mắt khác nhau (Rao, 1981).  Người dân địa phương  còn thường dùng chữa lỵ, ăn uống không tiêu, vàng da, đau mắt. Bộ phận  thường được sử dụng nhiều là vỏ cây (Laloo R. C. et al. 2006). Balami (2006) đã nghiên cứu và tìm hiểu 119 loài thực vật được sử  dụng làm thuốc của người Newar thuộc làng Pharping huyện Kathmandu   (Nê­pan). Trong đó, quả  và vỏ  loài cây  Mahonia nepaulensis  có thể  chế  thành dạng nước ép để chữa bệnh đi ngoài và bệnh lỵ. Ngoài ra còn có hai  loài cây khác cùng họ Berberidaceae là Berberis aristata DC. (Ban marpasi)  và Berberis asiatica Roxb. ex DC. (Marpasi) đều có thể tạo ra nước ép để  chữa bệnh đau dạ dày và cũng được cộng đồng này khai thác. 3.1.3.  Kỹ thuật nhân giống và gây trồng Ở Bắc Mỹ, Úc và một số nước Châu Âu sử dụng các loài cây khác  thuộc chi Mahonia (họ  Berberidaceae) có hình thái gần giống với HLOR   trồng làm cảnh. Chẳng hạn  ở Mỹ, nhiều loài cây thuộc chi Mahonia như  là  M. equifolium; M. fortunei...  được trồng làm cảnh xung quanh tường   nhà, bờ  rào hoặc các khoảng trống giữa các sân trường. Một số  loài về  mùa đông lá chuyển mầu đỏ  rất đẹp và tồn tại qua mùa đông. Người ta   cũng đã xây dựng quy trình gồm 8 bước nhân giống dinh dưỡng, gây trồ ...

Tài liệu được xem nhiều: