Đề tài nghiên cứu khoa học Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Số trang: 95
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.73 MB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư dài hạn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm… của các quốc gia trong đó có các nước đang phát triển. Vì vậy, thông qua dòng vốn FDI, các quốc gia đang phát triển nói chung và khu vực Châu Á nói riêng nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu đáng kể và trở thành một trong những vùng kinh tế năng động, đầy hứa hẹn trên bản đồ thế giới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài nghiên cứu khoa học "Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)"1TÓM TẮT ĐỀ TÀILý do chọn đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư dài hạn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm… của các quốc gia trong đó có các nước đang phát triển. Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ 19 đến nay, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những biến đổi sâu sắc. Xu hướng chung là ngày càng tăng lên về số lượng, quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư và sự tập trung ngày càng nhiều của các công ty xuyên quốc gia(MNE). Các MNE kiểm soát gần 90% vốn FDI trên thế giới, điều này phản ánh xu thế tham gia tích cực hơn của các nước vào quá trình toàn cầu hoá, liên kết và hợp tác quốc tế. Vì vậy, thông qua dòng vốn FDI, các quốc gia đang phát triển nói chung và khu vực Châu Á nói riêng nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu đáng kể và trở thành một trong những vùng kinh tế năng động, đầy hứa hẹn trên bản đồ thế giới. Riêng tại Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua, FDI giữ vai trò then chốt trong trong sự nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, sau khủng hoảng năm 2008, nền kinh tế vẫn chưa kịp phục hồi dẫn đến dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm đáng kể. Theo báo cáo về đầu tư xuất bản ngày 24/1/2013 của Cơ quan Liên Hợp Quốc về đầu tư và thương mại(UNCTAD) cho biết năm 2012 thế giới ghi nhận con số 1.300 tỷ USD vốn FDI được luân chuyển toàn cầu, đã giảm so với con số 1.600 tỷ của năm 2011. Và tình hình năm 2013 cũng không mấy khả quan, vẫn quay quanh ngưỡng của năm trước đã tạo nên một ―cuộc đua‖ FDI ngày càng trở nên khắc nghiệt. Những vấn đề này đặt ra câu hỏi làm thế nào để thu hút FDI và ― sử dụng vốn ngoại‖ một cách hiệu quả ở các nước đang phát triển? Để trả lời cho câu hỏi này, hàng loạt các bài nghiên cứu ra đời và không ít bài nghiên cứu trong số đó như một cuộn băng tua chậm giúp ta có cái nhìn ban đầu về tác động của các nhân tố lên dòng vốn FDI. Như nghiên cứu của Garibaldi và cộng sự(2002) tại 26 nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu cho ra kết quả hồi quy FDI được giải thích tốt bởi các nhân tố cơ bản của nền kinh tế như sự ổn định của kinh tế vĩ mô, mức độ cải cách nền kinh tế, tự do hoá thương mai, tình trạng quan liêu của chính phủ mà tiêu biểu là vấn nạn tham nhũng ở các nước nhận đầu tư. Hay nghiên cứu của Pravakar2 Sahoo (2006) tại các nước Nam Á trong giai đoạn 1975- 2003, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka nhân thấy các nhân tố như quy mô thị trường, tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động, chỉ số cơ sở hạ tầng và mức độ mở cửa thương mại có tác động lên FDI. Tuy nhiên, nhìn chung những bài nghiên cứu hầu như tập trung vào đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể, rất riêng về một khía cạnh nào đó, chưa cung cấp một bức tranh toàn diện về mối quan hệ giữa những thể chế phi chính thức của các quốc gia, đó là những thể chế phản ánh quan điểm của người dân với các quy tắc và chuẩn mực đã được hệ thống hoá tạo thành những thể chế chính thức như kinh tế, chính trị… Thứ hai, có rất ít các nghiên cứu diễn ra trên một loạt các thể chế chính thức và phi chính thức cũng như cung cấp các kết quả bao quát về những thể chế khác nhau thì tác động khác nhau đến dòng vốn FDI đổ vào như thế nào hay nói cách khác, loại hình thể chế nào thu hút hoặc không thu hút FDI? Nhận thấy được điều này cộng với nhu cầu thu hút vốn FDI từ các quốc gia phát triển như Việt Nam, đã thôi thúc chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu: ―Tác động của thế chế chính thức và thể chế phi chính thức lên dòng vốn FDI tại Việt Nam và các nước khu vực Châu Á‖. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp thêm cho các học giả về vai trò của các thể chế khác nhau lên FDI, động lực hình thành chúng một cách riêng biệt cũng như đề xuất các gợi ý chính sách cho các nhà điều hành với mục tiêu phát triển nền kinh tế các quốc gia, khu vực và đặc biệt là Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu đề xuất một kết cấu và thiết lập các công cụ để tạo điều kiện cho các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết xa hơn nữa trên những thể chế chính thức thông qua cung cấp tư liệu về tác động của thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế điều tiết trong việc thu hút các chiến lược đầu tư từ các công ty đa quốc gia vào các quốc gia, đặc biệt là khu vực Châu Á. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hướng đến trả lời 2 câu hỏi: 1. Thể chế phi chính thức có mối tương quan như thế nào với các thể chế chính thức của các quốc gia đó?3 2. Xác định tác động của các thể chế chính thức khác nhau đến sự hấp dẫn của một quốc gia đối với những nhà quản trị các công ty đa quốc gia và thu hút dòng vốn FDI đổ vào như thế nào? Phương pháp nghiên cứu Để kiểm tra những ảnh hưởng trên và các tác động của môi trường thể chế, chúng tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu 10 quốc gia Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippine, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam trong 13 năm ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài nghiên cứu khoa học "Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)"1TÓM TẮT ĐỀ TÀILý do chọn đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư dài hạn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm… của các quốc gia trong đó có các nước đang phát triển. Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ 19 đến nay, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những biến đổi sâu sắc. Xu hướng chung là ngày càng tăng lên về số lượng, quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư và sự tập trung ngày càng nhiều của các công ty xuyên quốc gia(MNE). Các MNE kiểm soát gần 90% vốn FDI trên thế giới, điều này phản ánh xu thế tham gia tích cực hơn của các nước vào quá trình toàn cầu hoá, liên kết và hợp tác quốc tế. Vì vậy, thông qua dòng vốn FDI, các quốc gia đang phát triển nói chung và khu vực Châu Á nói riêng nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu đáng kể và trở thành một trong những vùng kinh tế năng động, đầy hứa hẹn trên bản đồ thế giới. Riêng tại Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua, FDI giữ vai trò then chốt trong trong sự nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, sau khủng hoảng năm 2008, nền kinh tế vẫn chưa kịp phục hồi dẫn đến dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm đáng kể. Theo báo cáo về đầu tư xuất bản ngày 24/1/2013 của Cơ quan Liên Hợp Quốc về đầu tư và thương mại(UNCTAD) cho biết năm 2012 thế giới ghi nhận con số 1.300 tỷ USD vốn FDI được luân chuyển toàn cầu, đã giảm so với con số 1.600 tỷ của năm 2011. Và tình hình năm 2013 cũng không mấy khả quan, vẫn quay quanh ngưỡng của năm trước đã tạo nên một ―cuộc đua‖ FDI ngày càng trở nên khắc nghiệt. Những vấn đề này đặt ra câu hỏi làm thế nào để thu hút FDI và ― sử dụng vốn ngoại‖ một cách hiệu quả ở các nước đang phát triển? Để trả lời cho câu hỏi này, hàng loạt các bài nghiên cứu ra đời và không ít bài nghiên cứu trong số đó như một cuộn băng tua chậm giúp ta có cái nhìn ban đầu về tác động của các nhân tố lên dòng vốn FDI. Như nghiên cứu của Garibaldi và cộng sự(2002) tại 26 nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu cho ra kết quả hồi quy FDI được giải thích tốt bởi các nhân tố cơ bản của nền kinh tế như sự ổn định của kinh tế vĩ mô, mức độ cải cách nền kinh tế, tự do hoá thương mai, tình trạng quan liêu của chính phủ mà tiêu biểu là vấn nạn tham nhũng ở các nước nhận đầu tư. Hay nghiên cứu của Pravakar2 Sahoo (2006) tại các nước Nam Á trong giai đoạn 1975- 2003, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka nhân thấy các nhân tố như quy mô thị trường, tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động, chỉ số cơ sở hạ tầng và mức độ mở cửa thương mại có tác động lên FDI. Tuy nhiên, nhìn chung những bài nghiên cứu hầu như tập trung vào đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể, rất riêng về một khía cạnh nào đó, chưa cung cấp một bức tranh toàn diện về mối quan hệ giữa những thể chế phi chính thức của các quốc gia, đó là những thể chế phản ánh quan điểm của người dân với các quy tắc và chuẩn mực đã được hệ thống hoá tạo thành những thể chế chính thức như kinh tế, chính trị… Thứ hai, có rất ít các nghiên cứu diễn ra trên một loạt các thể chế chính thức và phi chính thức cũng như cung cấp các kết quả bao quát về những thể chế khác nhau thì tác động khác nhau đến dòng vốn FDI đổ vào như thế nào hay nói cách khác, loại hình thể chế nào thu hút hoặc không thu hút FDI? Nhận thấy được điều này cộng với nhu cầu thu hút vốn FDI từ các quốc gia phát triển như Việt Nam, đã thôi thúc chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu: ―Tác động của thế chế chính thức và thể chế phi chính thức lên dòng vốn FDI tại Việt Nam và các nước khu vực Châu Á‖. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp thêm cho các học giả về vai trò của các thể chế khác nhau lên FDI, động lực hình thành chúng một cách riêng biệt cũng như đề xuất các gợi ý chính sách cho các nhà điều hành với mục tiêu phát triển nền kinh tế các quốc gia, khu vực và đặc biệt là Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu đề xuất một kết cấu và thiết lập các công cụ để tạo điều kiện cho các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết xa hơn nữa trên những thể chế chính thức thông qua cung cấp tư liệu về tác động của thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế điều tiết trong việc thu hút các chiến lược đầu tư từ các công ty đa quốc gia vào các quốc gia, đặc biệt là khu vực Châu Á. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hướng đến trả lời 2 câu hỏi: 1. Thể chế phi chính thức có mối tương quan như thế nào với các thể chế chính thức của các quốc gia đó?3 2. Xác định tác động của các thể chế chính thức khác nhau đến sự hấp dẫn của một quốc gia đối với những nhà quản trị các công ty đa quốc gia và thu hút dòng vốn FDI đổ vào như thế nào? Phương pháp nghiên cứu Để kiểm tra những ảnh hưởng trên và các tác động của môi trường thể chế, chúng tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu 10 quốc gia Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippine, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam trong 13 năm ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Báo cáo nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học Nghiên cứu vốn đầu tư nước ngoài Nghiên cứu vốn FDI Tình hình thu hút FDI Nghiên cứu nguồn vốn đầu tưGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1553 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 496 0 0 -
57 trang 341 0 0
-
33 trang 333 0 0
-
80 trang 277 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 272 0 0 -
95 trang 269 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 269 0 0 -
29 trang 229 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 223 0 0