Máy quay chuyển động “như thế nào”- kỹ thuật và cách thức để nhà quay phim, người chỉ đạo nghệ thuật, và đạo diễn cùng sáng tạo một cảnh quay trong phim- được nhận ra và định nghĩa khá dễ dàng. Thế nhưng cho đến khi bắt đầu nói về “tại sao” và “khi nào” thì cuộc tranh luận trở nên rắc rối hơn một chút- như khi phải ngồi yên lúc cảnh quay nổi tiếng mở màn cho bộ phim noir cổ điển Touch of Evil (1958). Sự thúc đẩy chuyển động không khó hiểu; chúng ta, nói...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đem chuyển động vào phim
Quay phim - Đem chuyển động
vào phim
Máy quay chuyển động “như thế nào”- kỹ thuật và cách thức để nhà quay
phim, người chỉ đạo nghệ thuật, và đạo diễn cùng sáng tạo một cảnh quay trong
phim- được nhận ra và định nghĩa khá dễ dàng. Thế nhưng cho đến khi bắt đầu nói
về “tại sao” và “khi nào” thì cuộc tranh luận trở nên rắc rối hơn một chút- như khi
phải ngồi yên lúc cảnh quay nổi tiếng mở màn cho bộ phim noir cổ điển Touch of
Evil (1958). Sự thúc đẩy chuyển động không khó hiểu; chúng ta, nói cho cùng,
đang nói chuyện về phim ảnh. Nhưng nếu bạn không muốn đánh giá bừa bãi sự
chuyển động máy quay, các câu hỏi nảy sinh: Khi nào thì cần thiết? Khi nào phải
dừng lại? Và máy quay đang chuyển động có ý nghĩa như thế nào đối với khán
giả?
“Triết lý của tôi là, chuyển động máy quay tốt xảy ra khi bạn không hề để ý
đến chuyện đó,” Owen Roizman, ASC nói. “Chỉ cần cảm thấy phù hợp. Cách tiếp
cận của tôi là luôn để cho bản năng, cảnh quay, và những gì diễn viên thể hiện
quyết định xem máy quay có nên di chuyển hay không.” Đối với William A.
Franker, ASC, tất cả tuỳ thuộc vào nội dung kịch bản. “Chuyển động máy quay thì
tốt, nhưng nó còn phải bộc lộ điều gì đó nữa. Bạn phải lôi kéo khán giả bằng hình
ảnh, nhưng để làm điều đó, bạn không cần những chuyển động bóng bẩy và những
cảnh quay với dolly 360 độ.” Theo Haskell Wexler, ASC, “Những chuyển động
máy quay được sử dụng để dẫn dắt con mắt khán giả, để cho mọi người có cảm
xúc- chân thật, hợp lý, và sâu sắc- như là cách ánh sáng và bố cục làm vậy.” Thật
ra, cả Wexler và Roizman đều xác nhận rằng không thể đánh giá sự chuyển động
máy quay riêng biệt với những nguyên tố chủ chốt khác của nghệ thuật quay phim.
John Toll, ASC, nói ngắn ngọn: “Cảnh quay phải thích hợp với sự thiết kế hình
ảnh chung của cả bộ phim để tạo tác động.”
Mặc dù vậy, chính những chuyển động làm một bộ phim thành một bộ
phim. Những nghệ thuật thị giác khác đều được giảm thiểu và tổng hợp lại, nhưng
chỉ điện ảnh tồn tại khả năng điều chỉnh khung cho một hình ảnh liên tục. Và ngay
cả cho đến năm 1896, những nhà làm phim vẫn tìm cách làm điều đó. Trong năm
1916, D. W. Griffith và nhà quay phim Billy Bitzer sáng tạo ra một trong những
chuyển động máy quay đầu tiên của điện ảnh: một đoạn chậm, liên tục chiếu vào
và chuyển dần xuống phía dưới Cửa Babylon trong bộ phim Intolerance. Lý do
hiển nhiên cho cú bấm máy là trước tiên hình thành độ lớn của cảnh quay, và sau
đó chuyển động đến gần hơn để thấy rõ ràng những hoạt động của con người trên
đó. Đây là cái mà nhà sáng tạo ra Steadicam, Garrett Brown, gọi là “hiệu ứng 3
chiều”. Trong bài viết “The Moving Camera”, Brown giải thích: “Khi máy quay
bắt đầu chuyển động, chúng ta đột nhiên nhận được những thông tin còn thiếu về
hình dạng, cách sắp đặt bề ngoài, và kích cỡ. Hình ảnh hai chiều đạt được ảo giác
ba chiều và chúng ta được mang vào màn ảnh, sâu hơn, và sâu hơn nữa trong thế
giới không liền kề với chúng ta”.
Vào thời cực thịnh của kỷ nguyên phim câm, trong những năm 1920, các
nghệ sĩ khắp thế giới tìm kiếm những cách mới để kết hợp chuyển động máy quay
vào cấu trúc phim. Ở Liên Xô (Nga), Sergei Eisenstein làm công việc tiên phong
trong dựng phim với hình ảnh liên tục (montage); ở Đức, F.W. Murnau thử
nghiệm những phương pháp khác nhau để kể chuyện hoàn toàn bằng hình ảnh.
Phim của Murnau năm 1924 The Last Laugh, do Karl Freund quay ở hãng UFA,
có hình ảnh ấn tượng đến nỗi nó không hề dứt mạch ở chỗ nào. Trong một cảnh,
máy quay được điều khiển từ một chiếc xe đạp, hay trong cảnh khác, Freund buộc
máy quay vào người để bắt chước cách nhìn của nhân vật say. Khi Murnau đến
Hollywood để làm phim Sunrise năm 1927, ông “nhập khẩu” cả phong cách sáng
tạo của ông. Ông làm việc với nhà quay phim Charles Rosher, ASC và Karl
Struss, ASC để tháo gỡ máy quay ra khỏi những ràng buộc của nó.
Trong bài tường thuật về Sunrise, John Bailey, ASC diễn tả một cách âu
yếm cái mà anh gọi là “một trong những cảnh quay nổi tiếng nhất trong mọi phim
câm”. Nhân vật chính, một nhà nông do George O’Brien đóng, đi vào đầm lầy
trong đêm tối để hẹn hò với người đàn bà phóng đãng đến từ thành phố. Khi anh
nông dân đi qua màn sương, Bailey kể chi tiết, “Máy quay chuyển động theo anh
ta, nhưng không phải trên dolly [ở dưới đất], mà là theo đường ray ở trên đầu với
một cái bục treo lơ lửng vào đó”. O’Brien di chuyển vòng vèo, theo sau là máy
quay; động tác lén lút phản ánh sự dấn bước vào hoàn cảnh tâm lý nguy hiểm của
anh nông dân. Trong một cảnh khác, các nhà làm phim đặt máy quay vào một cái
xe đẩy (trolley), đưa đi liên tục từ vùng quê lên thành phố (các cảnh quay được
xây dựng trong hãng Fox). Murnau và những nhà quay phim của ông luôn tìm
cách để cho máy quay được tự do, dù chỉ để diễn tả một cảm xúc (như trong cảnh
đầm lầy), hay là để đưa nhân vật đi từ điểm A đến điểm B một cách thuyết phục
(như trong cảnh sử dụng xe đẩy).
Đạo diễn người ...