Hiện nay các nhà thuốc tư nhân mọc lên như nấm. Đứng bán thuốc có khi chỉ là những dược tá sơ học, thậm chí tại các chợ vùng quê còn thấy những người bán thuốc dạo chưa được đào tạo. Người dân chỉ cần nói vài ba triệu chứng sơ qua là đã được: kê đơn, bán thuốc ngay. Trước tình trạng này, hàng loạt hậu quả xấu đã tác động vào đối tượng trực tiếp là người bệnh. Tình trạng kháng thuốc đáng báo động ở nhiều địa phương, các loại kháng sinh thế hệ mới cũng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dị ứng thuốc có thể tử vong Dị ứng thuốc có thể tử vong Hiện nay các nhà thuốc tư nhân mọc lên như nấm. Đứng bán thuốc cókhi chỉ là những dược tá sơ học, thậm chí tại các chợ vùng quê còn thấynhững người bán thuốc dạo chưa được đào tạo. Người dân chỉ cần nói vài batriệu chứng sơ qua là đã được: kê đơn, bán thuốc ngay. Trước tình trạng này,hàng loạt hậu quả xấu đã tác động vào đối tượng trực tiếp là người bệnh. Tình trạng kháng thuốc đáng báo động ở nhiều địa phương, các loại khángsinh thế hệ mới cũng dần mất hiệu quả trong khi chưa tìm ra các loại thuốc mới.Các trường hợp dị ứng thuốc, phản ứng có hại của thuốc được báo cáo ngày càngnhiều. Bài viết này đề cập đến vấn đề dị ứng thuốc với các biểu hiện trong da liễuvà một số loại thuốc hay gây dị ứng hiện nay. Dị ứng thuốc biểu hiện bởi một số các triệu chứng lâm sàng ở người dùngloại thuốc nhất định nào đó. Dị ứng thuốc là tình trạng rất hay gặp trong da liễu,biểu hiện chủ yếu dưới một số hình thức như sau: Ban đỏ: là dạng ban sẩn hoặc ban dạng sởi, nhỏ như đầu đinh ghim ở thânmình và có thể liên kết lại với nhau tạo thành mảng, người bệnh thường ngứa, thờigian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng 1 tuần và tồn tại đến một vài tuần.Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazol,carbamazepin, cefaclor. Mề đay: là các sẩn đỏ phù nề, ngứa nhiều, có thể kết hợp với phù mạch,phù nề mi mắt, môi. Thường biểu hiện sớm sau dùng thuốc và tồn tại trong khoảng24 giờ hoặc kéo dài hơn, tùy theo từng loại thuốc gây dị ứng. Những thuốc haygây dị ứng dạng này là: kháng sinh, đặc biệt là penicillin, thuốc khác: captopril vàcác thuốc ức chế men chuyển khác, thuốc chống viêm giảm đau không steroid(NSAIDs) bao gồm cả aspirin, và các thuốc quinin. Viêm da bong vảy: là dạng ít gặp, với biểu hiện đỏ da bong vảy và ngứatoàn thân. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và đe dọa đến tính mạng người bệnh.Dạng này thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại trong 3 - 4tuần. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: allopurinol, thuốc chống sốt rét,carbamazepin, penicillin và sulfonamid. Da nhạy cảm ánh sáng: bình thường da không nhạy cảm với ánh sáng, khidùng một số loại thuốc, thường là các loại như NSAIDs, ciprofloxacin, nalidixicacid, phenothiazin, tetracyclin, griseofulvin, amiodaron, sulfonamid và thiazid thìda trở nên tăng nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống bỏng,sạm da, đen da hoặc mất sắc tố da… tại các vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay,mu bàn chân. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời giantiếp xúc với ánh nắng. Hồng ban đa dạng (erythema multiform): tổn thương là các ban hình biabắn có ba vòng tròn đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ phùnề, ở giữa là mụn nước nhỏ hoặc vỡ, hoại tử. Nguyên nhân do thuốc gây hồng banđa dạng chỉ chiếm khoảng 10%, các thuốc thường gây tình trạng này là:allopurinol, carbamazepin, phenytoin, NSAIDs, sulfonamid và tetracyclin. Hoại tử thượng bì nhiễm độc (toxic epidermal necrolysis): còn gọi là hộichứng Lyell. Đây là thể dị ứng thuốc gây tử vong cao nhất do tình trạng hoại tửthượng bì lan tỏa cấp tính và nhiễm độc, giống tình trạng bỏng nặng. Lyell là tìnhtrạng cấp cứu rất khẩn trương và tích cực. Người bệnh có thể tử vong do rối loạnnước điện giải, rối loạn chuyển hóa, nhiễm độc, nhiễm trùng... Bệnh thường xuấthiện sau khi dùng thuốc khoảng 1 tuần, biểu hiện da toàn thân bị hoại tử, trợt,bong ra như bị bỏng. Các thuốc hay gây hội chứng này là: allopurinol, ampicillin,amoxycillin, carbamazepin, phenytoin, lamotrigin, nevirapin, barbiturat,sulfonamid, cephalosporin và NSAIDs. Viêm mao mạch: là tình trạng viêm các mao mạch ngoài da do các thuốcnhư: ức chế men chuyển, NSAIDs, sulfonamid và thiazid lợi tiểu. Biểu hiện ngoàida là các ban xuất huyết sờ thấy được trên mặt da. Ngoài ra thuốc còn có thể gâyviêm mạch nội tạng và gây nguy hiểm hơn cho người bệnh. Ban dạng lichen: gọi tên này bởi vì tổn thương ngoài da giống lichenphẳng: là các sẩn màu hơi tím, phẳng, trên đó có các rãnh, khía... tổn thương cóthể liên kết thành mảng lớn. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: thuốc chẹnbeta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chống sốt rét, frusemid, thiazid,chlorpropamid, methyldopa, phenothiazin và quinidin. Hồng ban cố định nhiễm sắc: là dạng dị ứng thuốc biểu hiện ở vị trí cốđịnh trên da (thường là các vị trí liên kết da - niêm mạc). Tổn thương là các dátsẫm màu, ranh giới rất rõ với da lành, số lượng thường chỉ một hoặc vài tổnthương. Xuất hiện lại tại đúng vị trí lần trước, sau khi uống thuốc khoảng 30 phútđến 8 giờ kèm theo cảm giác nóng rát hoặc châm chích tại vị trí tổn thương. Cácthuốc thường gây dị ứng loại này là: tetracyclin, sulfonamid, NSAIDs,paracetamol, phenolphthalein và barbiturat. ...