Thân nhiệt con người bình thường được duy trì trong một giới hạn hẹp, cho dù có những biến động lớn của điều kiện môi trường và hoạt động thể lực.Những biểu hiện thường đi kèm với các bệnh lý toàn thân là rối loạn điều hoà thân nhiệt, chuột rút, kiệt sức, trúng nóng…Cơ thể điều hoà thân nhiệt dựa trên hai cơ chế chủ yếu là sinh nhiệt và mất nhiệt.Rối loạn điều hoà nhiệt: Khi hoạt động, có sự mất cân bằng tạm thời giữa sinh nhiệt và mất nhiệt, nhưng thân nhiệt sẽ trở lại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điểm mặt những bệnh thường mắc mùa nắng nóng Điểm mặt những bệnh thường mắc mùa nắng nóng Thân nhiệt con người bình thường được duy trì trong một giới hạnhẹp, cho dù có những biến động lớn của điều kiện môi trường và hoạt độngthể lực. Những biểu hiện thường đi kèm với các bệnh lý toàn thân là rối loạn điềuhoà thân nhiệt, chuột rút, kiệt sức, trúng nóng… Cơ thể điều hoà thân nhiệt dựa trên hai cơ chế chủ yếu là sinh nhiệt và mấtnhiệt. Rối loạn điều hoà nhiệt: Khi hoạt động, có sự mất cân bằng tạm thời giữasinh nhiệt và mất nhiệt, nhưng thân nhiệt sẽ trở lại bình thường ngay sau khingừng hoạt. Khi bị sốt, sự thích nghi nói trên kém hơn. Trong tình trạng đó, sự điều hoà mất nhiệt do luồng máu đến da quan trọnghơn nhiều so với sự ra mồ hôi. Khi bắt đầu sốt, các thụ cảm nhiệt cho thấy nhiệtđộ trong cơ thể thấp, và bệnh nhân đáp ứng như kiểu bị lạnh, nên có sự tăng sinhnhiệt bằng cách run hay rùng mình và giảm mất nhiệt bằng cách co mạch dưới da.Điều này giải thích cơ chế cảm giác ớn lạnh và run khi bắt đầu sốt. Ngược lại, khi nguyên nhân gây sốt đã hết, thân nhiệt trở lại bình thường vàbệnh nhân đáp ứng giống như người bị nóng: dãn mạch dưới da và toát mồ hôi. Dao động thân nhiệt khoảng 3ºC so với bình thường không làm biến đổiđáng kể các chức năng của cơ thể. Co giật hay xảy ra ở trẻ em khi thân nhiệt vượtqua 40º1C và tổn thương não không hồi phục khi thân nhiệt quá 42º2C. Khi thânnhiệt đo ở miệng cao quá 41º1C, ngược lại khi thân nhiệt xuống tới 32º8C sẽ gâylú lẫn và hôn mê. Đối với trẻ nhỏ và người già, dùng quạt, tắm mát, ở chỗ râm mát, tránh hoạt động quá mức. Các hội chứng do nóng: Hội chứng do nóng thường gặp ở người già khinhiệt độ môi trường tăng trên 32ºC và độ ẩm tương đối cao (>60%), đặc biệt là ởnhững người rối loạn thần kinh, nghiện rượu, đang dùng thuốc điều trị tâm thần,thuốc lợi tiểu, các thuốc kháng tiết cholin, ở nơi kém thông khí và không có điềuhoà nhiệt độ. Cần 7 đến 14 ngày để cơ thể chúng ta có thể thích nghi với khí hậu. Toátmồ hôi là biện pháp tự nhiên hữu hiệu nhất chống lại tác động của nhiệt độ môitrường và có thể giúp nhiệt độ trung tâm không hoặc rất ít biến đổi. Chừng nàocòn ra được mồ hôi, cơ thể chúng ta còn chịu đựng tốt với nhiệt độ cao của môitrường, miễn là muối và nước, hai thành phần chủ chốt của mồ hôi, được cung cấpđầy đủ. Giãn mạch ngoại biên để tạo điều kiện thải nhiệt là một biện pháp quantrọng khác giúp cơ thể thích nghi với khí hậu nóng. Khi sang chấn nhiệt kéo dài sẽlàm giảm lượng máu tĩnh mạch trở về tim, nên cung lượng tim sẽ giảm. Nếu nhiệtđộ môi trường tiếp tục tăng cao hơn nhiệt độ cơ thể, nhiệt sẽ giữ lại trong cơ thể vàxảy ra hiện tượng quá nhiệt. Phòng bệnh bằng cách uống nhiều nước, mặc đồ mỏng, nhất là đối với trẻnhỏ và người già, dùng quạt, tắm mát, ở chỗ râm mát, tránh hoạt động quá mức. + Chuột rút do nóng: Đây là biểu hiện lành tính nhất của hội chứng donóng. Đặc điểm chính là đau kiểu chuột rút dữ dội, ngắt quãng hay thoáng qua ởcác cơ phải hoạt động nhiều nhất. Thường kiểu chuột rút này xảy ra ở người làmviệc nặng nhọc mà chưa thích nghi với khí hậu nóng. Điều trị bằng nghỉ ngơi nơimát và uống nhiều nước và điện giải kali, natri. Có thể phòng được hội chứng nàybằng cách ăn chế độ nhiều muối hơn và uống nhiều nước. + Suy kiệt do nóng: Suy kiệt do nóng xảy ra dưới hai dạng: dạng do kiệtnước và dạng do kiệt muối. Cả hai đều xuất hiện do hệ tim mạch không đáp ứngđược với nhiệt độ môi trường cao. Mất nước thường hay gặp ở người lớn tuổiđang dùng thuốc lợi tiểu, hoặc ở những người không uống đủ nước khi ở trongmôi trường nóng. Hay gặp sốt thể kiệt muối xảy ra do không bù đủ muối, thường có giảmnatri và clo máu. Cả hai thể này đều gây yếu cơ, mệt, bồn chồn, khát, chóng mặt,đau đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn. Khó chịu ở bụng và thỉu có thể xuất hiện trướckhi ngất. Ngất do nóng xảy ra ở người đang làm việc hoặc nghỉ ngơi. Khởi phát độtngột nhưng diễn biến ngắn. Bệnh nhân đột nhiên trở nên xám như màu tro, da lạnhvà ẩm, giãn đồng tử, hạ huyết áp khi thay đổi tư thế và mạch nhanh. Thời gian bịnóng và mức độ mất mồ hôi xác định thái độ xử trí: đưa bệnh nhân đến một nơithoáng mát, đặt ở tư thế nằm. Thường một lúc sau bệnh nhân sẽ tỉnh trở lại. Đôikhi phải truyền dịch nếu không uống được nước. + Trúng nóng: Trúng nóng xảy ra khi các cơ chế điều nhiệt của cơ thểkhông còn đủ khả năng làm thoát nhiệt hợp lý nữa nên nhiệt độ của cơ thể tăngcao, thường lên đến 41ºC, làm suy sụp các chức năng của nhiều tạng. Biểu hiệnthường đột ngột, khởi đầu bằng các triệu chứng thần kinh trung ương như đau đầu,nói lịu giọng, chóng mặt, mệt thỉu, ảo giác, lũ lẫn, co giật, thao cuồng, và hôn mê.Thường không có ...