Thông tin tài liệu:
Không đề - tác phẩm của Robert Morris Lời nhóm biên dịch: Bài dịch này là phần mở đầu do Tiến sĩ Judith Collins 1 viết trong cuốn sách Sculpture Today 2 (xuất bản năm 2007), có thể coi là một tổng quan về sự phát triển cùng những quan điểm cách mạng về chất liệu, phương pháp và ý tưởng của nghệ thuật điêu
.khắc hiện đại trong hơn một thế kỷ qua, đặc biệt là điêu khắc đương đại trong hơn bốn thập kỷ gần đây. Tiêu đề do nhóm biên dịch tạm đặt. * (Tiếp theo và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điêu khắc học Từ hiện đại tới đương đại
Điêu khắc: Từ hiện đại tới đương
đại (2)
Không đề - tác phẩm của Robert Morris
Lời nhóm biên dịch: Bài dịch này là phần mở đầu do Tiến sĩ Judith
Collins 1 viết trong cuốn sách Sculpture Today 2 (xuất bản năm 2007),
có thể coi là một tổng quan về sự phát triển cùng những quan điểm
cách mạng về chất liệu, phương pháp và ý tưởng của nghệ thuật điêu
khắc hiện đại trong hơn một thế kỷ qua, đặc biệt là điêu khắc đương
đại trong hơn bốn thập kỷ gần đây. Tiêu đề do nhóm biên dịch tạm đặt.
*
(Tiếp theo và hết)
Vào thập niên 1970 đầy biến động, một số lý thuyết có giá trị do các
nghệ sĩ Hoa Kỳ đề xuất đã ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển của điêu
khắc trong giai đoạn cận đại hơn bất kỳ ảnh hưởng nào khác của các sử
gia hay những học giả uyên thâm; và chính lực lượng nghệ sĩ quan
trọng này đã “bồi những nhát cuốc cuối cùng chôn lấp” chủ nghĩa Hiện
đại. Trong số đó, hai điêu khắc gia Robert Morris (1931 – ) và Donald
Judd (1928 – 1994) là những người có những đóng góp đáng kể nhất,
cả về lý thuyết và thực hành, trong việc biến đổi một thứ chủ nghĩa
Hiện đại đầy tự mãn, hình thức và thuần khiết sang một dạng thức được
định nghĩa mới về nghệ thuật [mới] với những phương thức thể hiện
mới.
Không đề - tác phẩm của Robert Morris
Từ năm 1966 tới 1969, Morris có bốn bài viết liên tục về điêu khắc với
tiêu đề chung là Ghi chú về điêu khắc đăng trên tờ Diễn Đàn Nghệ
Thuật (Artforum). Trong bài viết đầu tiên, Ghi chú về điêu khắc: Phần
1, xuất hiện vào tháng 2-1966, Morris tập trung thảo luận về những đối
tượng điêu khắc đơn giản, ba chiều mà ông làm từ chất liệu ván ép sơn
màu với quan điểm của người trong cuộc. Ông cũng cho rằng bối cảnh
trưng bày tác phẩm, cách thức chiếu sáng và việc bắt người xem bách
bộ quanh tác phẩm đã làm biến đổi sự nhận thức về hình thái của đổi
tượng trưng bày. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh tới mối quan hệ
giữa người xem và trải nghiệm của họ với một bức tượng ba chiều, qua
đó trình bày những khái niệm mới về hiện tượng học (phenomenology)
trong thế giới điêu khắc.
Có lẽ những trước tác của triết gia Pháp Maurice Merleau-Ponty (1908-
1961) đã làm bệ phóng cho những ý tưởng xuất sắc của Morris. Cuốn
sách Hiện tượng học của Tri giác của Merleau-Ponty, xuất bản tại
Pháp năm 1945 (được dịch sang tiếng Anh năm 1962) đã nhanh chóng
trở thành sách gối đầu gường của các nghệ sĩ và phê bình gia thời đó
đang băn khoăn về sự tiếp nhận và đánh giá đúng đắn các công trình
nghệ thuật [mới]. Hiện tượng học (phenomenology) là trào lưu triết học
do nhà toán học kiêm triết gia Đức Edmund Husserl (1859 – 1938)
khởi xướng từ đầu thế kỷ 20. Hiện tượng học phân tích những nhận
thức của con người có được thông qua kinh nghiệm cảm xúc, đồng thời
khảo sát bản chất cốt lõi những điều chúng ta trải nghiệm.
Trong thời kỳ Hậu – Hiện đại, các điêu khắc gia bắt đầu thử nghiệm
những phương pháp thể hiện tác phẩm khác nhau. Chính Marcel
Duchamp là người đầu tiên “xử lý” không gian trưng bày nghệ thuật
khi ông “can thiệp” vào phòng triển lãm, ví dụ như với tác phẩm 1200
Túi than (1938), và Hàng dặm dây (1942). Ông đã treo những túi than
lủng lẳng từ trần tại một triển lãm nghệ thuật siêu thực ở Galerie
Beaux-Art, New York năm 1938. Tác phẩm Hàng Dặm Dây lại xuất
hiện tại một triển lãm nghệ thuật siêu thực khác tổ chức tại số 451 Đại
lộ Madison, New York vào năm 1942; chiều dài của các sợi dây được
căng ở đây thực sự đo được là ba dặm, và được giăng mắc giống như
những mạng nhện đan ngang phòng trưng bày, ngay đằng trước các tác
phẩm khác. Sidney Janis, thương gia nghệ thuật hàng đầu, cũng là bạn
cũ của Duchamp, hồi tưởng: Duchamp bắt đầu chiến công hiển hách
này nhằm “biểu trưng hoá – theo đúng nghĩa đen – những khó khăn bị
lảng tránh bởi sự thiếu mạnh dạn tìm hiểu và chấp nhận các triển lãm
[mới lạ]“. Theo ký ức của Duchamp, các sợi dây làm bằng dây cháy
chậm đã phát lửa dưới sức nóng của bóng đèn điện – “sợ vãi linh hồn,
nhưng hoàn hảo”.
Hàng dặm dây
Nghệ sĩ người Pháp Yves Klein (1928 – 1962) tiếp tục ý tưởng làm
người xem được thay đổi nhiều trải nghiệm của mình trong phòng
trưng bày khi ông bố trí tác phẩm Rỗng (Le Vide) tại Galerie Iris Clert,
Paris vào năm 1958. Đó là một gallery hoàn toàn trống không, chẳng có
bất kỳ hiện vật nào trong đó ngoài bốn bức tường mới được sơn lại một
màu màu trắng bóng. Nghệ sĩ tự nhốt mình bên trong không gian trống
trải này, cho phép 10 người xem cùng vào phòng mỗi đợt và họ chỉ
được ở lại trong đó đúng ba phút. Có tới ba ngàn người đã đến đây vào
đêm khai mạc trong sự kiểm soát trật tự của cảnh sát. Sự trống rỗng của
không gian trưng bày đã tác động sâu sắc tới người xem, cả về cảm
xúc, thẩm mỹ lẫn bản năng.
Rỗng
Hai năm sau, nghệ sĩ Pháp Arman (tên khai sinh Arman Pierre
Fernandez, 1928 – 2005) tổ chức một triển lãm với tiêu đề Đặc (Le
Plein) tại cùng địa điểm này. Thư mời dự triển lãm được in trên các lon
đựng cá sardine. Arman chất đầy toàn bộ không gian gallery, từ sàn ...