Danh mục

Điêu khắc thời Lý (1010 – 1225)

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 359.61 KB      Lượt xem: 28      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, hùng cường sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Phật giáo trở thành quốc đạo phát triển tới mức, như sử gia Lê Văn Hưu nói: “nhân dân quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền”. Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh, quê hương Nhà Lý được xây dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến trúc Đông Nam Á, kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điêu khắc thời Lý (1010 – 1225) Điêu khắc thời Lý (1010 – 1225) Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, hùng cường sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Phật giáo trở thành quốc đạo phát triển tới mức, như sử gia Lê Văn Hưu nói: “nhân dân quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền”. Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh, quê hương Nhà Lý được xây dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến trúc Đông Nam Á, kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo. Các chùa thời Lý thường có 4 cấp, ăn sâu và cao dần theo triền núi, hoặc có mặt bằng hình vuông, hình tròn, trung tâm là tháp cao có tượng Phật đặt trong. Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ. Các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu người mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn đều thống nhất một tinh thần viên mãn, cá tính bị tan biến sau lớp đăng ten trang trí hoa văn dầy đặc trên bề mặt. Cột biểu chùa Dạm (1086) vay mượn từ biểu tượng Linga – Yoni Champa, là tác phẩm đồ sộ cao 5,4m có tính hoành tráng. Tinh thần Thiền Nhà Lý đã chi phối tính ôn hoà và mạnh mẽ bên trong của các tác phẩm điêu khắc vừa khái quát về tổng thể, kỹ lưỡng về chi tiết ở các công trình kiến trúc kỳ vỹ mà từ đó các bậc Thiền sư có thể “Hú lên một tiếng lạnh cả trời” (Đạo Hạnh). Điêu khắc thời Lý tinh vi và cân đối , mang cái trung dũng tĩnh tại và cái “hư không “của Phật Giáo .Vừa mới thoát khỏi nghìn năm nô lệ , được sống trong thái bình thịnh vượng các nghệ sĩ có thể đắm mình trong tôn giáo và triết học, tỉ mỉ tạc những pho tượng thể hiện cái nhìn thoát tục . Bên cạnh đó , điêu khắc cũng chịu ảnh hưởng Chăm . Những hình trang trí trên mặt đá của Chương Sơn( Hà Nam ) có bố cục , dáng điệu và hình thể gần với điêu khắc Chăm , nhưng cách biểu hiện khuôn mặt lại thuần Việt , những khuôn mặt vũ nữ không tròn bầu , xa xăm và có phần vô cảm như những khuôn mặt Chăm ,mà linh động và tươi trẻ. Pho tượng đời Lý nổi tiếng nhất là tượng A Di Đà của Chùa Phật Tích. Tượng cao 2m77 cả bệ , riêng tượng cao 1m87( bằng cái linga của chị Toet ), thể hiện Đức Phật đang ngồi thuyết pháp trên tòa sen . Tòa sen cao và bệ tượng tạo thành một hình tháp nhiều tầng gây cảm giác như đang nâng bổng Đức Phật lên .Dáng ngồi của Phật thanh thoát ,thư giãn .Đường cong chạy từ cổ dọc theo sống lưng cộng với khuôn mặt thoát tục gợi đến cái đẹp và sự dịu dàng phi giới tính . Toàn bức tượng cho ấn tượng vè sự đốn ngộ cao siêu và tâm hồn tĩnh tại cũng rất thoát tục và lãng mạn ,con rồng uốn lượn mềm mại và có một cái đầu mơ màng, những khúc uốn nhỏ dần phía đuôi . Điêu khắc đời Lý độc đáo , chủ yếu trên gốm và trên đá . Đề tài thường là thiên nhiên như mây , nước,hoa sen , hoa cúc và đặc biệt là hình tượng con rồng với nhiều nếp cong mềm mại tượng trưng cho nguồn nước , niềm mơ ước cho cư dân trồng lúa . Hình tượng con rồng của triều đại này không lẫn được với triều đại khác. Những hình điêu khắc ở chùa Phật Tích cho ta thấy rằng nghệ thuật điêu khắc thời Lý không những tiếp thu nghệ thuật Trung Hoa mà còn của ChamPa nữa : nhạc công và vũ nữ ,hình tượng thần điều Garuda. Rồng thời Lý có bốn chân ,loại lớn có vẩy . Nó rất khác con rồng thô to và mạnh thời Trần , cũng rất khác con rồng đường bệ của Trung Hoa . Thật thú vị khi con vật biểu tượng của Hoàng Đế mà lại tỏ ra mơ mộng và đáng yêu như thế .Nó chứng tỏ cái chất vị tha Phật Giáo và cái lãng mạn , cái triết lý đã thấm sâu vào thời đại ấy, từ nhà vua đến thứ dân ,nhà sư và nghệ sỹ . Mô típ Rồng triều Lý đã xuất hiện trên nhiều loại trang trí bố cục hình tròn ,hình cánh sen , hình lá đề, hình chữ nhật .Hầu như ở đâu , không gian nào ,những con rồng luôn có tư thế và cấu trúc giống nhau . Nếu nhận xét một cách tương đối kĩ tính như PGS Nguyễn Du Chi , thì có thể chia rồng thời Lý làm hai loại , loại cổ ngẫng và cổ rụt . Phong cách thời Lý , về đề tài liên quan đến rồng và bố cục hình trang trí rồng , được các đời sau học theo và giữ gìn . TƯỢNG PHẬT CHÙA PHẬT TÍCH Trong khuôn viên chùa ngày nay còn có pho tượng A Di Đà ngự tại thượng điện Chùa ,chiếm vị thế vô cùng quan trọng đối với nền mỹ thuật dân gian ở nước ta . Đây là pho tượng cổ nhất ở miền Bắc , đã được công nhận kỷ lục Phật Giáo , đồng thời tại Bảo TàngLịch Sử Quốc gia và Bảo Tàng Mỹ Thuật đều có phiên bản của pho tượng này . Bức tượng ở Chùa Làm bằng đá năm 1057, tạc Phật A Di Đà ngồi thiền định trên tòa sen , cao 1m85 ( tính cả bệ đá là cao 3m ). Các miếng vá trên tượng này tuy khéo song không che hết dấu vết phá hủy của chiến tranh . Tượng có đầu nở ,tóc xoắn ốc , tai to chảy ,khuôn mặt trái xoan đẹp , đôi mắt phượng hiền từ khép hờ nhìn xuống ,mũi dọc dừa cao đầy , môi mỉm cười độ lượng . ...

Tài liệu được xem nhiều: