Danh mục

Điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 220.27 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (ROP) ngày nay được biết đến như là một nguyên nhân gây mù lòa chính ởtrẻ em. Từ thực tế Ở Việt Nam, phương pháp điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non bắt đầu áp dụng điều trị từ năm 2010 với sự phối hợp giữa Bệnh viện Mắt trung ương và Bệnh viện Phụ sản trung ương. Cho đến nay đã có gần 200 bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ nonĐiều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ nonBệnh võng mạc trẻ đẻ non (ROP) ngày nay được biết đếnnhư là một nguyên nhân gây mù lòa chính ởtrẻ em.Từ thực tếỞ Việt Nam, phương pháp điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ nonbắt đầu áp dụng điều trị từ năm 2010 với sự phối hợp giữaBệnh viện Mắt trung ương và Bệnh viện Phụ sản trung ương.Cho đến nay đã có gần 200 bệnh nhân được điều trị theophương pháp này. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy100% bệnh nhân đạt kết quả tốt nếu chỉ định điều trị không bịchậm trễ và cũng chưa ghi nhận tác dụng phụ gây hại tại mắtcũng như toàn thân.Vào thập kỷ 80, bệnh võng mạc trẻ đẻ non được điều trị chủyếu bằng phương pháp lạnh đông (cryotherapy). Bước sangthập kỷ 90 phương pháp quang đông bằng laser đã được ứngdụng để điều trị tình trạng bệnh lý này. Lạnh đông và laserđều là những phương pháp điều trị khá hiệu quả đối với bệnhvõng mạc trẻ đẻ non và vẫn được áp dụng cho đến tận ngàynay.Ảnh minh họa (nguồn Internet)Yêu sức khỏe - Sức khỏe! Chuyên mục về tin tức sức khỏe, tưvấn trực tuyến, gia đình, tin tức làm đẹp, đời sống, y tế.Phương pháp lạnh đông có hiệu quả hơn đối với các hình tháibệnh võng mạc mà tổn thương khu trú ở phía trước (vùng 2),còn với những trường hợp tổn thương ở phía sau, vùng võngmạc hậu cực (vùng 1) thì lạnh đông khó mang lại kết quả vàtỷ lệ thất bại thường cao, có thể lên tới 50-70%. Trong khi đólaser quang đông cho hiệu quả tốt với cả hình thái bệnh võngmạc ở vùng 1 và vùng 2, tỷ lệ thành công sau điều trị có thểlên tới 80-90%. Chính vì vậy, phương pháp laser gần như đãthay thế phương pháp lạnh đông trong điều trị bệnh võngmạc trẻ đẻ non và lạnh đông chỉ còn được áp dụng ở nhữngnơi không có laser. Tuy nhiên, bệnh võng mạc ở trẻ đẻ noncó một hình thái bệnh rất dễ dẫn đến mù lòa ngay cả khi đượcđiều trị rất sớm đó là hình thái bệnh võng mạc trẻ đẻ non hìnhthái hung hãn cực sau (agressive posterior retinopathy ofprematurity hay AP-ROP).Và những băn khoănAP-ROP là nỗi trăn trở của các thầy thuốc nhãn khoa làm vềbệnh võng mạc trẻ đẻ non trên toàn thế giới bởi vì mặc dùđược điều trị nhưng những trẻ này vẫn có nguy cơ bị mù vĩnhviễn cả hai mắt và cuộc sống vẫn chìm trong bóng tối. Maymắn thay, điều kỳ diệu lần đầu tiên đã đến với những bệnhnhân mắc bệnh hình thái nặng này. Vào năm 2006 khi một sốbác sĩ nhãn khoa trên thế giới áp dụng phương pháp điều trịmới – tiêm thuốc bevacizumab (avastin) vào nội nhãn để điềutrị tình trạng bệnh lý nặng này và kết quả bệnh đã thoái triểnvà trẻ tránh được mù lòa. Từ đó đến nay, trên thế giới đã córất nhiều nghiên cứu áp dụng phương pháp điều trị này đểcứu vãn thị lực cho những trẻ bị bệnh võng mạc trẻ đẻ nonhình thái hung hãn cực sau.Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy đây làphương pháp điều trị rất hiệu quả, chưa có nghiên cứu nàoghi nhận tác dụng có hại của thuốc lên sự phát triển của mắtcũng như toàn thân. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn rấtthận trọng trong việc sử dụng thuốc này và chỉ sử dụng khithật sự cần thiết. Lý do là vì thời gian theo dõi chưa đủ để trảlời câu hỏi về lâu dài liệu thuốc này có tuyệt đối an toàn đốivới sự phát triển của trẻ nhỏ hay không. Các nhà khoa họccho rằng nếu phương pháp điều trị này tuyệt đối an toàn chosự phát triển của trẻ thì đây sẽ là phương pháp điều trị đượclựa chọn đầu tiên để điều trị cho mọi hình thái bệnh võngmạc trẻ đẻ non trong tương lai.

Tài liệu được xem nhiều: