![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính (Kỳ 2)
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 266.29 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bệnh mạch vành Bệnh tim do mạch vành (coronary heart disease - CHD) là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực, bệnh có khuynh hướng giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nước Tây Âu, Úc, Mỹ, nhưng ở một số nước Đông Âu bệnh vẫn có xu hướng tăng. Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau ở các nước cũng như trong cùng một nước nhưng khác nhau về điều...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính (Kỳ 2) Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính (Kỳ 2) Bệnh mạch vành Bệnh tim do mạch vành (coronary heart disease - CHD) là vấn đề sức khỏecộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các nguyênnhân gây tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực, bệnh cókhuynh hướng giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nước Tây Âu, Úc, Mỹ,nhưng ở một số nước Đông Âu bệnh vẫn có xu hướng tăng. Tỷ lệ mắc bệnh khácnhau ở các nước cũng như trong cùng một nước nhưng khác nhau về điều kiệnkinh tế xã hội làm cho người ta chú ý đến các nhân tố nguy cơ mắc bệnh là môitrường và dinh dưỡng. Theo sự hiểu biết hiện nay, ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là hútthuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao. Các nguy cơ tăngdần theo tuổi ở nữ (trước khi mãn kinh), thấp hơn ở nam. Các nguy cơ do tănghuyết áp và mối liên quan giữa dinh dưỡng với tăng huyết áp đã được trình bày ởtrên, các nhân tố sau cũng ảnh hưởng đến nguy cơ gây bệnh mạch vành: Hút thuốc lá: là yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với bệnh mạch vành. Người tathấy hút thuốc lá không những gây tổn thương màng trong các động mạch mà cònsinh ra chất nicotin gây tăng nhịp tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơtim. Các oxid carbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxycủa máu. Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độkết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ trọng cao (HDL: highdensity lipoprotein). Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy ở vùng ĐịaTrung Hải như: Ý, Hy Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ lệ mắc bệnhmạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng rau và trái cây trongkhẩu phần ở các nước này thường cao. Cholesterol máu: mối liên quan giữa bệnh mạch vành với lượng cholesteroltoàn phần trong máu đã được thừa nhận rộng rãi. Cholesterol là một chất sinh họccó nhiều chức phận quan trọng, một phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần dothức ăn cung cấp. Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phầntrong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các acid béo no. Docholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hếtcác bác sĩ đều khuyên lượng cholesterol trong chế độ ăn trung bình nên dưới 300mg/ngày/người. Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não (2.500mg%), bầu dục, tim, lòng đỏ trứng, do đó hạn chế các thức ăn này góp phần giảmlượng cholesterol trong khẩu phần. Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol nhưngđồng thời có nhiều lecithin là chất điều hòa chuyển hóa cholesterol trong cơ thể.Do đó ở những người có cholesterol máu cao không nhất thiết kiêng hẳn trứng màchỉ nên ăn trứng mỗi tuần 1 - 2 lần và nếu có điều kiện uống thêm sữa. Thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đến hàm lượng cholesterolhuyết thanh là các acid béo no. Nghiên cứu nổi tiếng của Keys và cộng sự trên 7nước sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho thấy, mức cholesterol huyết thanhliên quan ít với tổng số chất béo mà liên quan chặt chẽ với lượng các acid béo no.Qua 10 năm theo dõi đã thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tăng lên một cáchcó ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo no trong khẩu phần. Các acid béo no cónhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực vật nói chung giàu cácacid béo chưa no. Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động vật, tăng dầu thực vật,bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn chuyển hóa cholesterol.Người ta nhận thấy các acid béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọng thấp(LDL) vận chuyển cholesterol từ máu tới các tổ chức và có thể tích lũy ở thànhđộng mạch. Ngược lại các acid béo chưa no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọngcao (HDL) vận chuyển cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa. Chế độ ăn nhiều rau và trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với bệnhmạch vành, tuy thế còn chưa rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất xơ cónhiều trong rau quả, cũng có thể là một chế độ ăn thực vật sẽ làm giảm huyết áp,một nhân tố nguy cơ của các bệnh mạch vành. Trong các thập kỷ vừa qua, nhiều nước như Thụy Điển, Phần Lan, Úc, HoaKỳ... đã thực hiện nhiều biện pháp để phòng ngừa bệnh mạch vành và họ đã đạtđược một số kết quả khả quan. Nói chung các biện pháp này bao gồm các lờikhuyên về chế độ dinh dưỡng, cai thuốc lá, hoạt động thể lực và duy trì cân nặngổn định. Trong các khuyến cáo về ăn uống, người ta khuyên năng lượng do chấtbéo cung cấp không được vượt quá 30% tổng số năng lượng, sử dụng dầu thựcvật, tăng sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp quá10% tổng số năng lượng, còn năng lượng do protein nên đạt từ 10 - 15%. Các bài học tr ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính (Kỳ 2) Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính (Kỳ 2) Bệnh mạch vành Bệnh tim do mạch vành (coronary heart disease - CHD) là vấn đề sức khỏecộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các nguyênnhân gây tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực, bệnh cókhuynh hướng giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nước Tây Âu, Úc, Mỹ,nhưng ở một số nước Đông Âu bệnh vẫn có xu hướng tăng. Tỷ lệ mắc bệnh khácnhau ở các nước cũng như trong cùng một nước nhưng khác nhau về điều kiệnkinh tế xã hội làm cho người ta chú ý đến các nhân tố nguy cơ mắc bệnh là môitrường và dinh dưỡng. Theo sự hiểu biết hiện nay, ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là hútthuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao. Các nguy cơ tăngdần theo tuổi ở nữ (trước khi mãn kinh), thấp hơn ở nam. Các nguy cơ do tănghuyết áp và mối liên quan giữa dinh dưỡng với tăng huyết áp đã được trình bày ởtrên, các nhân tố sau cũng ảnh hưởng đến nguy cơ gây bệnh mạch vành: Hút thuốc lá: là yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với bệnh mạch vành. Người tathấy hút thuốc lá không những gây tổn thương màng trong các động mạch mà cònsinh ra chất nicotin gây tăng nhịp tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơtim. Các oxid carbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxycủa máu. Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độkết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ trọng cao (HDL: highdensity lipoprotein). Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy ở vùng ĐịaTrung Hải như: Ý, Hy Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ lệ mắc bệnhmạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng rau và trái cây trongkhẩu phần ở các nước này thường cao. Cholesterol máu: mối liên quan giữa bệnh mạch vành với lượng cholesteroltoàn phần trong máu đã được thừa nhận rộng rãi. Cholesterol là một chất sinh họccó nhiều chức phận quan trọng, một phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần dothức ăn cung cấp. Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phầntrong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các acid béo no. Docholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hếtcác bác sĩ đều khuyên lượng cholesterol trong chế độ ăn trung bình nên dưới 300mg/ngày/người. Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não (2.500mg%), bầu dục, tim, lòng đỏ trứng, do đó hạn chế các thức ăn này góp phần giảmlượng cholesterol trong khẩu phần. Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol nhưngđồng thời có nhiều lecithin là chất điều hòa chuyển hóa cholesterol trong cơ thể.Do đó ở những người có cholesterol máu cao không nhất thiết kiêng hẳn trứng màchỉ nên ăn trứng mỗi tuần 1 - 2 lần và nếu có điều kiện uống thêm sữa. Thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đến hàm lượng cholesterolhuyết thanh là các acid béo no. Nghiên cứu nổi tiếng của Keys và cộng sự trên 7nước sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho thấy, mức cholesterol huyết thanhliên quan ít với tổng số chất béo mà liên quan chặt chẽ với lượng các acid béo no.Qua 10 năm theo dõi đã thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tăng lên một cáchcó ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo no trong khẩu phần. Các acid béo no cónhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực vật nói chung giàu cácacid béo chưa no. Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động vật, tăng dầu thực vật,bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn chuyển hóa cholesterol.Người ta nhận thấy các acid béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọng thấp(LDL) vận chuyển cholesterol từ máu tới các tổ chức và có thể tích lũy ở thànhđộng mạch. Ngược lại các acid béo chưa no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọngcao (HDL) vận chuyển cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa. Chế độ ăn nhiều rau và trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với bệnhmạch vành, tuy thế còn chưa rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất xơ cónhiều trong rau quả, cũng có thể là một chế độ ăn thực vật sẽ làm giảm huyết áp,một nhân tố nguy cơ của các bệnh mạch vành. Trong các thập kỷ vừa qua, nhiều nước như Thụy Điển, Phần Lan, Úc, HoaKỳ... đã thực hiện nhiều biện pháp để phòng ngừa bệnh mạch vành và họ đã đạtđược một số kết quả khả quan. Nói chung các biện pháp này bao gồm các lờikhuyên về chế độ dinh dưỡng, cai thuốc lá, hoạt động thể lực và duy trì cân nặngổn định. Trong các khuyến cáo về ăn uống, người ta khuyên năng lượng do chấtbéo cung cấp không được vượt quá 30% tổng số năng lượng, sử dụng dầu thựcvật, tăng sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp quá10% tổng số năng lượng, còn năng lượng do protein nên đạt từ 10 - 15%. Các bài học tr ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học cơ sở cách chăm sóc sức khỏe bệnh thường gặp cách phòng và trị bệnh dinh dưỡng trong bệnh mạn tínhTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 237 0 0 -
7 trang 200 0 0
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 196 0 0 -
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 179 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 175 0 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 152 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 114 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 109 0 0 -
SINH MẠCH TÁN (Nội ngoại thương biện hoặc luận)
2 trang 81 1 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 79 0 0