Đồ án: Tìm hiểu công nghệ ADSL,thiết kế triển khai và ứng dụng
Số trang: 43
Loại file: pdf
Dung lượng: 572.40 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lịch sử phát triển Công nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng (ADSL) là một thành viên quan trọng của họ xDSL, đã được phát triển từ năm 1989 nhờ nghiên cứu của Joseph Lechleider ở Bellcore. Hai đặc điểm riêng của ADSL là cho phép dịch vụ POTS cùng tồn tại với truyền số liệu trên một đôi dây và băng thông hướng lên hẹp hơn băng thông hướng xuống.Bellcore bắt đầu hướng phát triển ADSL để đáp ứng các ứng dụng Video theo yêu cầu (VoD). Động cơ thúc đẩy các nghiên cứu của Bellcore...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đồ án: Tìm hiểu công nghệ ADSL,thiết kế triển khai và ứng dụng ĐỒ ÁN:Tìm hiểu công nghệ ADSL,thiết kế triển khai và ứng dụng.A-Lý do- mục tiêu-ứng dụng về đề tài ADSL:1.Lý do2.Mục tiêu3.Khả năng ứng dụngB-Chương 1: giới thiệu ADSL:1.1 Lịch sử phát triểnCông nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng (ADSL) là một thành viên quantrọng của họ xDSL, đã được phát triển từ năm 1989 nhờ nghiên cứu của JosephLechleider ở Bellcore. Hai đặc đ iểm riêng của ADSL là cho phép dịch vụ POTScùng tồn tại với truyền số liệu trên một đôi dây và băng thông hư ớng lên hẹp hơnbăng thông hư ớng xu ống.Bellcore bắt đầu hướng phát triển ADSL để đáp ứng cácứng dụng Video theo yêu cầu (VoD). Động cơ thúc đẩy các nghiên cứu củaBellcore từ đầu những năm 1990 là do yêu cầu cạnh tranh của các công ty viễnthông với các công ty cáp trong việc phân phối các dịch vụ VoD tới khách hàng.Bell Atlantic đã triển khai thử những thử nghiệm VoD đ ầu tiên sử dụng ADSL ởphía bắc New Jersey cùng lúc với Time Warner đang triển khai những thử nghiệmVoD sử dụng cáp ở Orlando, Florida. Trong các cuộc thử nghiệm ban đầu này, tốcđộ hướng xuống cao nhất xấp xỉ 1,5 Mbit/s đ ủ để phân phối các luồng videoMPEG-1. Tốc độ hướng lên vào khoảng 64Kbit/s đủ để cho phép người sử dụnggửi các yêu cầu đơn giản tới video serve (nghĩa là các lệnh để lựa chọn chươngtrình và các ch ức năng tương tự như VCR đ ể tạm ngừng, quay thuận nghịch...)Vào giữa những năm 1990, thị trường VoD bị chững lại do thiếu nhu cầu. Lý docăn bản không phải là do kỹ thuật ADSL mà do thực tế chi phí triển khai các dịchvụ video cao đã làm tăng giá cước thuê bao hàng tháng. Khách hàng không muốntrả cước phí này khi có các điểm cho thuê băng hình rẻ hơn nhiều. Khi thị trườngVoD bị thu hẹp lại, cả công ty viễn thông và công ty cáp đều nhận ra các cơ hộimới cho các kỹ thuật của họ.Nhu cầu truy nhập internet tốc độ cao đã mang lại cơ hội mới cho ADSL. Tín hkhông đối xứng của công nghệ này rất phù hợp cho các ứng dụng như duyệt trangWeb với nội dung thông tin hướng xuống thường đòi hỏi băng thông lớn hơnhướng lên. Tốc độ hướng lên được cải thiện đến 640 Kbit/s hoặc cao hơn vàhướng xuống từ 6 đến 8 Mbit/s (phụ thuộc vào chiều dài và trạng thái đường dây).Điều này có nghĩa là, tốc độ h ướng xuống đủ cao để hỗ trợ các luồng videoMPEG-2. Tỷ số băng thông hướng lên và hướng xuống được cân nhắc là 1:10 làgiá trị tối ưu phù hợp với lưu lượng TCP/IP. Một điểm cải tiến khác là khả năngthích ứng tốc độ cho phép hai modem ADSL điều chỉnh các tốc độ hướng lên vàhướng xuống trên cơ sở trạng thái mạch vòng. Một ưu điểm khác của ADSL chotruy nhập ADSL là chế độ “luôn sẵn sàng” nghĩa là khi thuê bao truy nhập Internetkhông cần thao tác quay số và chờ đợi vì kết nối Internet không qua tổng đàiPSTN.Việc sử dụng mạch vòng nội hạt cho cả thoại tương tự và truyền số liệu yêu cầucác loại mã đường hiệu quả hơn. Kỹ thuật mã đa tần rời rạc (DMT), ban đầu đượcphát triển ở Bellcore sau đó được bổ sung và hoàn thiện nhờ công sức của giáo s ưM.Cioffi ở trường Đại học Stanford, người đã thành lập công ty Amati vào năm1992. Amati đã phát triển một loại modem có tên là Prelude và được các công tyviễn thông thử nghiệm trên toàn thế giới để đánh giá công nghệ. Sau đó, Amati đãkết hợp các bài học rút ra trong các cuộc thử nghiệm này vào các modem và bộ thuphát ADSL th ế hệ tiếp theo. Cùng thời gian đó, công ty Globespan đã đề xướngmột kỹ thuật mã đường cạnh tranh gọi là “điều chế biên độ pha không sóng mang”(CAP) và một lựa chọn khác nữa cho mã đường là kỹ thuật “điều chế biên độ cầuphương” (QAM), rất gần với CAP về mặt kỹ thuật căn bản. Một số nhóm đã tánthành với CAP và QAM vì chúng có ưu điểm là dựa trên những hiểu biết đượcthiết lập giữa những người sáng lập và sản xuất modem băng tần thoại.Ngay từ đầu những năm 1990, Bellcore đã cân nhắc nhiều loại mã đường khácnhau và đã lựa chọn DMT dựa trên thể nghiệm thành công về kỹ thuật của Amati.Mặc dù những người sử dụng CAP không đồng tình nhưng DMT có thể hoạt độngtốt hơn CAP khi có tạp âm trên đường truyền. Lựa chọn mã DMT có thể thuyếtphục các tổ chức tiêu chuẩn ở Mỹ và Châu Âu về các đặc tính của DMT nhưngnh ững thử nghiệm và triển khai ADSL ban đ ầu lại là dựa trên kỹ thuật CAP. Mỗikỹ thuật mã đường đều thể hiện những ưu nhược đ iểm riêng tuỳ thuộc vào trạngthái đường dây vì vậy đã nổ ra một cuộc tranh cãi về mặt kỹ thuật để tìm loại mãđường phù hợp cho ADSL. Đôi khi những cuộc tranh cãi trở nên gay gắt dẫn đếncạnh tranh trên th ị trường. Những người ủng hộ DMT tập trung vào sự chấp nhậncủa các tổ chức tiêu chuẩn còn những người ủng hộ CAP tập trung vào việc triểnkhai thực tế. Những người ủng hộ DMT đã bác bỏ con số triển khai vào thời điểmnày là không có ý nghĩa. Cuối cùng, các hãng truyền thông do sự thúc đẩy của cácnhà cung cấp dịch vụ đã lựa chọn DMT cho ADSL. Những nỗ lực tiêu chuẩn hoáquốc tế cho DMT của ITU có ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn này.Trong khi những nỗ lực chuẩn hoá và các cuộc tranh cãi vẫn còn đang tiếp tục cholớp vật lý, các nhóm khác đã tập trung vào phát triển lớp giao vận, mạng và tầngliên kết. Đầu năm 1994, những bước đầu tiên cho việc thành lập một nhóm côngnghệ tập trung vào khả năng triển khai các công nghệ truy nhập dây đồng đã diễnra ở NewYork.Diễn đàn ADSL không tập trung vào loại mã đường mà giải quyết các vấn đề ởcác lớp trên lớp vật lý. Sau đó, diễn đàn ADSL đã phối hợp với các nhóm làm việcvà các tổ chức tiêu chuẩn khác để bàn bạc nhiều vấn đề liên quan đến cấu hình(end to end) của ADSL. Đầu năm 1998, diễn ra một sự kiện có ý nghĩa trong lịchsử ADSL, đó là sự thành lập của nhóm hoạt động chung UAWG. Chuyển hướngquan tâm từ video theo yêu cầu sang truy nhập Internet tốc độ cao đã tạo ra mộttiêu chuẩn ADSL mới cho việc triển khai rộng khắp trên thị trường. Một số yêucầu như giảm giá thành cho khách hàng, xoá bỏ các khó khăn khi triển khai trêndiện rộng nh ư lắp đặt mạng cho nhà cung cấp ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đồ án: Tìm hiểu công nghệ ADSL,thiết kế triển khai và ứng dụng ĐỒ ÁN:Tìm hiểu công nghệ ADSL,thiết kế triển khai và ứng dụng.A-Lý do- mục tiêu-ứng dụng về đề tài ADSL:1.Lý do2.Mục tiêu3.Khả năng ứng dụngB-Chương 1: giới thiệu ADSL:1.1 Lịch sử phát triểnCông nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng (ADSL) là một thành viên quantrọng của họ xDSL, đã được phát triển từ năm 1989 nhờ nghiên cứu của JosephLechleider ở Bellcore. Hai đặc đ iểm riêng của ADSL là cho phép dịch vụ POTScùng tồn tại với truyền số liệu trên một đôi dây và băng thông hư ớng lên hẹp hơnbăng thông hư ớng xu ống.Bellcore bắt đầu hướng phát triển ADSL để đáp ứng cácứng dụng Video theo yêu cầu (VoD). Động cơ thúc đẩy các nghiên cứu củaBellcore từ đầu những năm 1990 là do yêu cầu cạnh tranh của các công ty viễnthông với các công ty cáp trong việc phân phối các dịch vụ VoD tới khách hàng.Bell Atlantic đã triển khai thử những thử nghiệm VoD đ ầu tiên sử dụng ADSL ởphía bắc New Jersey cùng lúc với Time Warner đang triển khai những thử nghiệmVoD sử dụng cáp ở Orlando, Florida. Trong các cuộc thử nghiệm ban đầu này, tốcđộ hướng xuống cao nhất xấp xỉ 1,5 Mbit/s đ ủ để phân phối các luồng videoMPEG-1. Tốc độ hướng lên vào khoảng 64Kbit/s đủ để cho phép người sử dụnggửi các yêu cầu đơn giản tới video serve (nghĩa là các lệnh để lựa chọn chươngtrình và các ch ức năng tương tự như VCR đ ể tạm ngừng, quay thuận nghịch...)Vào giữa những năm 1990, thị trường VoD bị chững lại do thiếu nhu cầu. Lý docăn bản không phải là do kỹ thuật ADSL mà do thực tế chi phí triển khai các dịchvụ video cao đã làm tăng giá cước thuê bao hàng tháng. Khách hàng không muốntrả cước phí này khi có các điểm cho thuê băng hình rẻ hơn nhiều. Khi thị trườngVoD bị thu hẹp lại, cả công ty viễn thông và công ty cáp đều nhận ra các cơ hộimới cho các kỹ thuật của họ.Nhu cầu truy nhập internet tốc độ cao đã mang lại cơ hội mới cho ADSL. Tín hkhông đối xứng của công nghệ này rất phù hợp cho các ứng dụng như duyệt trangWeb với nội dung thông tin hướng xuống thường đòi hỏi băng thông lớn hơnhướng lên. Tốc độ hướng lên được cải thiện đến 640 Kbit/s hoặc cao hơn vàhướng xuống từ 6 đến 8 Mbit/s (phụ thuộc vào chiều dài và trạng thái đường dây).Điều này có nghĩa là, tốc độ h ướng xuống đủ cao để hỗ trợ các luồng videoMPEG-2. Tỷ số băng thông hướng lên và hướng xuống được cân nhắc là 1:10 làgiá trị tối ưu phù hợp với lưu lượng TCP/IP. Một điểm cải tiến khác là khả năngthích ứng tốc độ cho phép hai modem ADSL điều chỉnh các tốc độ hướng lên vàhướng xuống trên cơ sở trạng thái mạch vòng. Một ưu điểm khác của ADSL chotruy nhập ADSL là chế độ “luôn sẵn sàng” nghĩa là khi thuê bao truy nhập Internetkhông cần thao tác quay số và chờ đợi vì kết nối Internet không qua tổng đàiPSTN.Việc sử dụng mạch vòng nội hạt cho cả thoại tương tự và truyền số liệu yêu cầucác loại mã đường hiệu quả hơn. Kỹ thuật mã đa tần rời rạc (DMT), ban đầu đượcphát triển ở Bellcore sau đó được bổ sung và hoàn thiện nhờ công sức của giáo s ưM.Cioffi ở trường Đại học Stanford, người đã thành lập công ty Amati vào năm1992. Amati đã phát triển một loại modem có tên là Prelude và được các công tyviễn thông thử nghiệm trên toàn thế giới để đánh giá công nghệ. Sau đó, Amati đãkết hợp các bài học rút ra trong các cuộc thử nghiệm này vào các modem và bộ thuphát ADSL th ế hệ tiếp theo. Cùng thời gian đó, công ty Globespan đã đề xướngmột kỹ thuật mã đường cạnh tranh gọi là “điều chế biên độ pha không sóng mang”(CAP) và một lựa chọn khác nữa cho mã đường là kỹ thuật “điều chế biên độ cầuphương” (QAM), rất gần với CAP về mặt kỹ thuật căn bản. Một số nhóm đã tánthành với CAP và QAM vì chúng có ưu điểm là dựa trên những hiểu biết đượcthiết lập giữa những người sáng lập và sản xuất modem băng tần thoại.Ngay từ đầu những năm 1990, Bellcore đã cân nhắc nhiều loại mã đường khácnhau và đã lựa chọn DMT dựa trên thể nghiệm thành công về kỹ thuật của Amati.Mặc dù những người sử dụng CAP không đồng tình nhưng DMT có thể hoạt độngtốt hơn CAP khi có tạp âm trên đường truyền. Lựa chọn mã DMT có thể thuyếtphục các tổ chức tiêu chuẩn ở Mỹ và Châu Âu về các đặc tính của DMT nhưngnh ững thử nghiệm và triển khai ADSL ban đ ầu lại là dựa trên kỹ thuật CAP. Mỗikỹ thuật mã đường đều thể hiện những ưu nhược đ iểm riêng tuỳ thuộc vào trạngthái đường dây vì vậy đã nổ ra một cuộc tranh cãi về mặt kỹ thuật để tìm loại mãđường phù hợp cho ADSL. Đôi khi những cuộc tranh cãi trở nên gay gắt dẫn đếncạnh tranh trên th ị trường. Những người ủng hộ DMT tập trung vào sự chấp nhậncủa các tổ chức tiêu chuẩn còn những người ủng hộ CAP tập trung vào việc triểnkhai thực tế. Những người ủng hộ DMT đã bác bỏ con số triển khai vào thời điểmnày là không có ý nghĩa. Cuối cùng, các hãng truyền thông do sự thúc đẩy của cácnhà cung cấp dịch vụ đã lựa chọn DMT cho ADSL. Những nỗ lực tiêu chuẩn hoáquốc tế cho DMT của ITU có ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn này.Trong khi những nỗ lực chuẩn hoá và các cuộc tranh cãi vẫn còn đang tiếp tục cholớp vật lý, các nhóm khác đã tập trung vào phát triển lớp giao vận, mạng và tầngliên kết. Đầu năm 1994, những bước đầu tiên cho việc thành lập một nhóm côngnghệ tập trung vào khả năng triển khai các công nghệ truy nhập dây đồng đã diễnra ở NewYork.Diễn đàn ADSL không tập trung vào loại mã đường mà giải quyết các vấn đề ởcác lớp trên lớp vật lý. Sau đó, diễn đàn ADSL đã phối hợp với các nhóm làm việcvà các tổ chức tiêu chuẩn khác để bàn bạc nhiều vấn đề liên quan đến cấu hình(end to end) của ADSL. Đầu năm 1998, diễn ra một sự kiện có ý nghĩa trong lịchsử ADSL, đó là sự thành lập của nhóm hoạt động chung UAWG. Chuyển hướngquan tâm từ video theo yêu cầu sang truy nhập Internet tốc độ cao đã tạo ra mộttiêu chuẩn ADSL mới cho việc triển khai rộng khắp trên thị trường. Một số yêucầu như giảm giá thành cho khách hàng, xoá bỏ các khó khăn khi triển khai trêndiện rộng nh ư lắp đặt mạng cho nhà cung cấp ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
công nghệ ADSL phân tích thiết kế luận văn công nghệ thông tin thiết kế quản lý thiết kế mạng luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 308 0 0 -
Tập bài giảng Thiết kế mạng - ThS. Trần Văn Long, ThS. Trần Đình Tùng (Biên soạn)
222 trang 278 0 0 -
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 237 0 0 -
79 trang 229 0 0
-
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 219 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 217 0 0 -
122 trang 214 0 0
-
LUẬN VĂN: TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP HỌC TÍCH CỰC VÀ ỨNG DỤNG CHO BÀI TOÁN LỌC THƯ RÁC
65 trang 214 0 0 -
Báo cáo thực tập nhà máy đường Bến Tre
68 trang 212 0 0 -
BÀI THUYẾT TRÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN
11 trang 205 0 0