Doanh nhân mới kết quả và thách thức
Số trang: 0
Loại file: doc
Dung lượng: 49.50 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cùng với quá trình đổi mới, một đội ngũ đông đảo những doanh nhân mới, những Giám đốc, Chủ tịch HĐQT của các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Nếu chỉ tính những doanh nghiệp đã đăng ký hợp pháp theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tử l990 - l999 là 45.005 và 14.400 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2000 thì số doanh nhân đã tăng lên đáng kể.......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nhân mới kết quả và thách thức Doanh nhân mới kết quả và thách thức Cùng với quá trình đổi mới, một đội ngũ đông đảo những doanh nhân mới, những Giám đốc, Chủ tịch HĐQT của các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Nếu chỉ tính những doanh nghiệp đã đăng ký hợp pháp theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tử l990 - l999 là 45.005 và 14.400 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2000 thì số doanh nhân đã tăng lên đáng kể. Nêu tính cả các doanh nghiệp gia đình, cá thể đăng ký ở huyện, quận, hoạt động chủ yếu ở địa phương, có quy mô không nhỏ thì con số đó còn cao hơn nữa, khoảng 400.000 - 500.000 đơn vị. (Việc phá sản doanh nghiệp theo Luật phá sản doanh nghiệp xảy ra rất ít và không được công bố nên chưa biết chắc chắn số doanh nghiệp hiện còn đang hoạt động là bao nhiêu). Tuy vậy, so với mức bình quân của nền kinh tế thị trường có một doanh nghiệp trên 50 người dân thì con số đó ở Việt Nam với 8 triệu dân còn quá nhỏ bé và hoàn toàn không có lý do gì đế lo ngại là đã có quá nhiều doanh nghiệp và doanh nhân. Để minh họa phân đóng góp của doanh nghiệp, xin đơn cử con số 300.000 việc làm đã được tạo ra bởi các doanh nghiệp mới được thành lập năm 2000, tương đương với tổng số việc làm do khu vực dầu tư nước ngoài đem lại trong 10 năm với số vốn to hơn gấp rất nhiều lần. Điều này chúng tỏ khu vực kinh tế dân doanh đang trở thành giải pháp chủ yếu để tạo việc làm trong nền kinh tế. Đứng về vị trí xã hội, đây là một cuộc đổi đời lớn, theo hướng tiến bộ vì việc hình thành lực lượng doanh nhân góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ chỗ không được pháp luật thừa nhận, (thậm chí có thời bị lên án và xua đuổi dưới dạng phe phảy, đến chỗ được thùa nhận và được tôn vinh ở mức độ khác nhau, tuỳ theo các ngành và địa phương, tuy còn hạn chế, là một bước tiến về chất. Cho đến hiện nay, tuy những thành kiến xã hội đối với doanh nghiệp tư nhân đã giảm nhiều song không phải không còn nặng nề. Cách gọi có tính chất kỳ thị như bọn tư thương” vẫn được sử dụng ở không ít nơi. Theo điều tra của MPDF - Dự án phát triển Mekong năm 1999 thành kiến dối với doanh nghiệp tư nhân vẫn còn khá nặng nề. Báo chí thường mô tả doanh nghiệp tư nhân đồng nghĩa với buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế… và để lại ấn tượng xấu cho Sinh viên tốt nghiệp mới ra trường tới mức chỉ có số rất ít sẵn sàng nhận việc làm ở khu vục tư nhân. Trong năm 2000 do ủng hộ và hưởng ứng luật Doanh nghiệp, chiều hướng này có dịu bót nhưng chưa phải đã hết. Mặt khác, chính sự tồn tại những thành kiến như vậy lại càng nói lên sự dấn thân và dũng cảm của người doanh nhân ở nước ta trong thời kỳ đồi mới. Họ đã từ bỏ lựa chọn truyền thống là dựa vào Nhà nước để có thu nhập bảo đảm mà tự chọn cho mình con đường không chỉ đầy mạo hiểm của kinh tế thị trường mà còn phải vượt qua nhiều thành kiến không có căn cứ và sư thiếu công bằng trong sự đánh giá của xã hội, thậm chí của bản thân thành viên trong gia đình. Đấy là một phẩm chất tốt đẹp mà Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với phong trào tự lập thân, lập CLB doanh nghiệp trẻ đã có sáng kiến ủng hộ. Sáng kiến này cần được công luân hoan nghênh và ̣ hưởng ứng. Có thể kể ra những đức tính tốt đẹp khác của doanh nhân để có thể tồn tại và thành đạt như sự kiên trì và khả năng vượt khó, năng lực biết chịu đựng, biết thỏa hiệp để đưa doanh nghiệp tiên ́ lên. Cuộc điều tra về tinh thần kinh doanh (entrepreneurship) do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW cùng phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ Dự án Ishikawa năm 2000, đối với 481 doanh nghiệp dân doanh đã thu được một số tư liệu đáng chú ý sau đây. Thứ nhất là tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm 21% là tỷ lệ khá cao so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này rất đáng mừng vì nó chứng tỏ sự vươn lên mạnh mẽ của phụ nữ, khắc phục khó khăn nhiều hơn nam giới để thành đạt trong kinh doanh. Thứ hai, là độ ngũ doanh nhân này trẻ hơn so với đội ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Có 4,7% từ tuổi 19 - 29 là tuổi khó có thể có trong hàng ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Lứa tuổi từ 30 - 49 chiếm 62,1%, tức là chiếm đa số doanh nhân. Nếu giả định rằng họ đã bắt đầu kinh doanh, lập nghiệp từ khi bắt đầu công cuộc đồi mới, thì đa số doanh nhân dã bắt đầu kinh doanh từ khi mới tốt nghiệp Đại học. Lứa tuổi từ 50 - 59 chiếm 24,7% trong khi số trên 60 tuổi chiếm 8,4%. Như vậy, đội ngũ doanh nhân mới đang ở tuổi sung sức, cho phép họ tiếp tục học tập, tiếp thu cái mới. Thứ ba, là đa số doanh nhân xuất thân từ cán bộ Nhà nước hay đã trải qua phục vụ trong quân đội. Tỷ lệ đã phục vụ trong quân đội là 11,2%, trong doanh nghiệp Nhà nước là 24,9%, trong các cơ quan Nhà nước khác là 20%, cộng lại là 56,1%. Chỉ có 16,6% đã hoạt động trong một doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác, là l,2% trong doanh nghiệp nước ngoài. Điều này chứng tỏ có sự điều chỉnh đáng kể lực lượng quản lý từ khu vục Nhà nước trong khu vực dân doanh. Đó cũng là điều bình thường vì trước đây, khu vực Nhà nước chiếm vị trí quan trọng nhất và tỷ lệ lớn nhất, thu hút và sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng lao động được đào tạo, khi xuất hiện khu vục dân doanh, việc chuyển dịch lực lượng như trên là điều tự nhiên và cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế. Đáng chú ý là có đến 40,5% doanh nhân cho biết trong gia đình họ có đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ quá trình đổi mới tư duy diễn ra không chỉ giữa các thế hệ mà trong cả tùng gia đình. Nguồn gốc của gia đình và của bản thân doanh nhân cho thấy không có sự khác biệt xã hội nào lớn giữa doanh nhân trong doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh về nguồn gốc xã hội và gia đình. Do vậy, nhưng thà ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nhân mới kết quả và thách thức Doanh nhân mới kết quả và thách thức Cùng với quá trình đổi mới, một đội ngũ đông đảo những doanh nhân mới, những Giám đốc, Chủ tịch HĐQT của các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Nếu chỉ tính những doanh nghiệp đã đăng ký hợp pháp theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tử l990 - l999 là 45.005 và 14.400 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2000 thì số doanh nhân đã tăng lên đáng kể. Nêu tính cả các doanh nghiệp gia đình, cá thể đăng ký ở huyện, quận, hoạt động chủ yếu ở địa phương, có quy mô không nhỏ thì con số đó còn cao hơn nữa, khoảng 400.000 - 500.000 đơn vị. (Việc phá sản doanh nghiệp theo Luật phá sản doanh nghiệp xảy ra rất ít và không được công bố nên chưa biết chắc chắn số doanh nghiệp hiện còn đang hoạt động là bao nhiêu). Tuy vậy, so với mức bình quân của nền kinh tế thị trường có một doanh nghiệp trên 50 người dân thì con số đó ở Việt Nam với 8 triệu dân còn quá nhỏ bé và hoàn toàn không có lý do gì đế lo ngại là đã có quá nhiều doanh nghiệp và doanh nhân. Để minh họa phân đóng góp của doanh nghiệp, xin đơn cử con số 300.000 việc làm đã được tạo ra bởi các doanh nghiệp mới được thành lập năm 2000, tương đương với tổng số việc làm do khu vực dầu tư nước ngoài đem lại trong 10 năm với số vốn to hơn gấp rất nhiều lần. Điều này chúng tỏ khu vực kinh tế dân doanh đang trở thành giải pháp chủ yếu để tạo việc làm trong nền kinh tế. Đứng về vị trí xã hội, đây là một cuộc đổi đời lớn, theo hướng tiến bộ vì việc hình thành lực lượng doanh nhân góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ chỗ không được pháp luật thừa nhận, (thậm chí có thời bị lên án và xua đuổi dưới dạng phe phảy, đến chỗ được thùa nhận và được tôn vinh ở mức độ khác nhau, tuỳ theo các ngành và địa phương, tuy còn hạn chế, là một bước tiến về chất. Cho đến hiện nay, tuy những thành kiến xã hội đối với doanh nghiệp tư nhân đã giảm nhiều song không phải không còn nặng nề. Cách gọi có tính chất kỳ thị như bọn tư thương” vẫn được sử dụng ở không ít nơi. Theo điều tra của MPDF - Dự án phát triển Mekong năm 1999 thành kiến dối với doanh nghiệp tư nhân vẫn còn khá nặng nề. Báo chí thường mô tả doanh nghiệp tư nhân đồng nghĩa với buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế… và để lại ấn tượng xấu cho Sinh viên tốt nghiệp mới ra trường tới mức chỉ có số rất ít sẵn sàng nhận việc làm ở khu vục tư nhân. Trong năm 2000 do ủng hộ và hưởng ứng luật Doanh nghiệp, chiều hướng này có dịu bót nhưng chưa phải đã hết. Mặt khác, chính sự tồn tại những thành kiến như vậy lại càng nói lên sự dấn thân và dũng cảm của người doanh nhân ở nước ta trong thời kỳ đồi mới. Họ đã từ bỏ lựa chọn truyền thống là dựa vào Nhà nước để có thu nhập bảo đảm mà tự chọn cho mình con đường không chỉ đầy mạo hiểm của kinh tế thị trường mà còn phải vượt qua nhiều thành kiến không có căn cứ và sư thiếu công bằng trong sự đánh giá của xã hội, thậm chí của bản thân thành viên trong gia đình. Đấy là một phẩm chất tốt đẹp mà Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với phong trào tự lập thân, lập CLB doanh nghiệp trẻ đã có sáng kiến ủng hộ. Sáng kiến này cần được công luân hoan nghênh và ̣ hưởng ứng. Có thể kể ra những đức tính tốt đẹp khác của doanh nhân để có thể tồn tại và thành đạt như sự kiên trì và khả năng vượt khó, năng lực biết chịu đựng, biết thỏa hiệp để đưa doanh nghiệp tiên ́ lên. Cuộc điều tra về tinh thần kinh doanh (entrepreneurship) do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW cùng phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ Dự án Ishikawa năm 2000, đối với 481 doanh nghiệp dân doanh đã thu được một số tư liệu đáng chú ý sau đây. Thứ nhất là tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm 21% là tỷ lệ khá cao so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này rất đáng mừng vì nó chứng tỏ sự vươn lên mạnh mẽ của phụ nữ, khắc phục khó khăn nhiều hơn nam giới để thành đạt trong kinh doanh. Thứ hai, là độ ngũ doanh nhân này trẻ hơn so với đội ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Có 4,7% từ tuổi 19 - 29 là tuổi khó có thể có trong hàng ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Lứa tuổi từ 30 - 49 chiếm 62,1%, tức là chiếm đa số doanh nhân. Nếu giả định rằng họ đã bắt đầu kinh doanh, lập nghiệp từ khi bắt đầu công cuộc đồi mới, thì đa số doanh nhân dã bắt đầu kinh doanh từ khi mới tốt nghiệp Đại học. Lứa tuổi từ 50 - 59 chiếm 24,7% trong khi số trên 60 tuổi chiếm 8,4%. Như vậy, đội ngũ doanh nhân mới đang ở tuổi sung sức, cho phép họ tiếp tục học tập, tiếp thu cái mới. Thứ ba, là đa số doanh nhân xuất thân từ cán bộ Nhà nước hay đã trải qua phục vụ trong quân đội. Tỷ lệ đã phục vụ trong quân đội là 11,2%, trong doanh nghiệp Nhà nước là 24,9%, trong các cơ quan Nhà nước khác là 20%, cộng lại là 56,1%. Chỉ có 16,6% đã hoạt động trong một doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác, là l,2% trong doanh nghiệp nước ngoài. Điều này chứng tỏ có sự điều chỉnh đáng kể lực lượng quản lý từ khu vục Nhà nước trong khu vực dân doanh. Đó cũng là điều bình thường vì trước đây, khu vực Nhà nước chiếm vị trí quan trọng nhất và tỷ lệ lớn nhất, thu hút và sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng lao động được đào tạo, khi xuất hiện khu vục dân doanh, việc chuyển dịch lực lượng như trên là điều tự nhiên và cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế. Đáng chú ý là có đến 40,5% doanh nhân cho biết trong gia đình họ có đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ quá trình đổi mới tư duy diễn ra không chỉ giữa các thế hệ mà trong cả tùng gia đình. Nguồn gốc của gia đình và của bản thân doanh nhân cho thấy không có sự khác biệt xã hội nào lớn giữa doanh nhân trong doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh về nguồn gốc xã hội và gia đình. Do vậy, nhưng thà ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
doanh nhân mới thách thức đối đầu rủi ro thành công phát triển doanh nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận quản trị học - Đề tài: 'Guanxi-Nghệ thuật tạo dựng quan hệ kinh doanh'
22 trang 206 0 0 -
Phát huy vai trò của nhà nước trong phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
10 trang 59 0 0 -
Những quy định pháp luật Giám đốc cần biết: Phần 1
273 trang 53 0 0 -
91 trang 45 1 0
-
4 cách sắp xếp các ý tưởng mới và định hướng đổi mới
4 trang 42 0 0 -
Bảo hiểm hàng hóa - Ths Ngô Thị Xuân Hải
31 trang 41 1 0 -
15 trang 40 0 0
-
Cần nhìn thẳng vào sự thật của thất bại
5 trang 38 0 0 -
Tiếp sinh lực cho công việc kinh doanh
3 trang 37 0 0 -
Khởi nghiệp có bao giờ là muộn
6 trang 36 0 0