Ở người bệnh có cơn đau thắt ngực và không suy tim, truyền Dobutrex có tác dụng giống như vận động gắng sức, nhu cầu oxy của cơ tim tăng vượt quá khả năng cung cấp oxy của mạch vành, do đó sẽ có những biểu hiệu lâm sàng của chứng thiếu máu cơ tim có hồi phục. Những triệu chứng này gồm cơn đau thắt ngực, ST chênh xuống, khiếm khuyết tưới máu khi chụp với nhấp nhánh đồ thallium, và thành tim có những co bóp mới bất thường.Ở người bệnh nhồi máu cơ tim cấp được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DOBUTREX (Kỳ 2) DOBUTREX (Kỳ 2) Ở người bệnh có cơn đau thắt ngực và không suy tim, truyền Dobutrex cótác dụng giống như vận động gắng sức, nhu cầu oxy của cơ tim tăng vượt quá khảnăng cung cấp oxy của mạch vành, do đó sẽ có những biểu hiệu lâm sàng củachứng thiếu máu cơ tim có hồi phục. Những triệu chứng này gồm cơn đau thắtngực, ST chênh xuống, khiếm khuyết tưới máu khi chụp với nhấp nhánh đồthallium, và thành tim có những co bóp mới bất thường. Ở người bệnh nhồi máu cơ tim cấp được điều trị với Dobutrex trong 24 giờ,kích thước vùng nhồi máu không lan rộng, tỷ lệ và mức độ nguy hiểm của loạnnhịp thất không tăng, nếu so sánh với các bệnh nhân tương tự không được điều trịvới Dobutrex. Ở súc vật, dùng Dobutrex ngay sau khi cột thắt động mạch vành,diện tích vùng nhồi máu sẽ thu nhỏ lại, nếu so sánh với nhóm súc vật chứng chỉ sửdụng dung dịch muối hoặc dopamine. Ở một nhóm súc vật khác có nhồi máu cơtim thực nghiệm được truyền Dobutrex với những liều lượng làm tăng nhịp tim vàtăng co bóp cơ tim, trên điện tâm đồ có những dấu hiệu gia tăng thiếu máu cơ tim.Những nghiên cứu gần đây trên súc vật cho thấy chức năng của tim kém đi, và khảnăng lan rộng của những tổn thương cơ tim trên thực nghiệm do những thuốc làmco sợi cơ tim, kể cả Dobutrex, là do tác dụng làm tăng nhịp tim hơn là tác dụnggây tăng sức co bóp cơ tim. Khi thuốc được truyền với những liều lượng gây tăngsức co bóp cơ tim đáng kể, mà ít gây tăng nhịp tim, thì sẽ không có bằng chứngtổn thương thêm cho cơ tim. Truyền Dobutrex với tốc độ dưới 1 giờ ở người bệnh suy tim sung huyết sẽlàm tăng cung lượng tim và giảm áp lực động mạch phổi bít, tuy vậy, sự cải thiệnvề huyết động học không kèm theo gia tăng sự dung nạp vận động. Ngược lại, khithời gian truyền kéo dài hơn (72 giờ), hoặc truyền lặp đi lặp lại với những khoảngcách đều nhau trong vòng vài tuần hay vài tháng sẽ cải thiện được tình trạng lâmsàng. Chưa rõ cơ chế sự cải thiện chức năng tâm thất khi truyền Dobutrex kéo dàihay gián đoạn. Tuy nhiên, trên những nghiên cứu truyền Dobutrex kéo dài thựchiện ở người, đã ghi nhận có các thay đổi về siêu cấu trúc ty thể và về hóa sinh, cóthể đây là cơ bản của sự cải thiện lâu dài. Dobutrex đã được dùng phối hợp với dopamine. Nói chung, cung lượng timcũng không tăng nhiều hơn nếu dùng liều tương đương Dobutrex đơn thuần. Tuynhiên, sự phối hợp này đã mang lại kết quả sau : - làm tăng huyết áp động mạch toàn thân (có thể có lợi cho người bệnhhuyết áp thấp). - gia tăng lưu lượng máu đến thận, lưu lượng nước tiểu và sự bài tiết natri. - ngăn ngừa áp lực đổ đầy thất tăng, thường xảy ra khi dùng dopamine đơnthuần, vì vậy làm giảm nguy cơ phù phổi và sung huyết phổi, nhất là ở người bệnhsuy chức năng thất trái. Dobutrex cũng đã được phối hợp với những thuốc giãn mạch khác nhưnitroglycerin hoặc nitroprusside, đặc biệt cho những người bệnh thiếu máu cơ tim.Sự phối hợp này có thể giúp tăng cung lượng tim, và làm giảm sức đề kháng củahệ mạch, và giảm áp lực đổ đầy thất mà tác dụng đã thấy khi dùng riêng rẽ mộttrong hai loại thuốc trên. Nhịp tim - huyết áp không thay đổi hoặc có hơi tăng khidùng phối hợp Dobutrex và một loại thuốc giãn mạch. Dobutrex là chất chủ vận b-adrenergic. Do đó, tác dụng của thuốc có thể bịđối kháng bởi những chất đối kháng trên receptor b-adrenergic. Trong quá trìnhđiều trị bằng những chất đối kháng beta, dùng kèm Dobutrex ở liều thấp có biểuhiện tác động của a-adrenergic ở mức độ khác nhau, như co mạch. Do tương tácthuốc, Dobutrex và các thuốc đối kháng sẽ cạnh tranh với nhau trên cùng receptorbeta. Sự cạnh tranh này có tính hồi phục, do đó, nếu dùng Dobutrex với liều caohơn sẽ có tác động cạnh tranh mạnh hơn chống lại ảnh hưởng của các thuốc đốikháng ở receptor b-adrenergic. DƯỢC ĐỘNG HỌC Dobutrex bắt đầu tác dụng sau 1-2 phút, và dù truyền với bất kỳ vận tốcnào, nồng độ vững bền trong huyết tương và tác dụng tối đa cũng đạt được sau 10phút. Nồng độ ổn định trong huyết tương tỷ lệ thuận với tốc độ truyền dịch. Ởngười bệnh bị suy tim sung huyết, nếu truyền với tốc độ 5 mg/(kg.phút), nồng độtrung bình trong huyết tương sẽ đạt được khoảng 100 nanogam/mL. Độ thanh thải trong huyết tương ở người lớn là 2,4 L/phút/m2, thể tích phânphối khoảng 20% thể trọng, và thời gian bán thải trong huyết tương dưới 3 phút.Chuyển hóa chủ yếu qua methyl hóa, sau đó là phản ứng liên hợp. Các chấtchuyển hóa được thải trừ qua thận và mật. Trong nước tiểu, chất chuyển hóa chủyếu gồm các chất liên hợp của dobutamine và 3-O-methyl dobutamine. Dẫn xuất3-O-methyl không còn hoạt tính sinh học. Khi truyền liên tục kéo dài, Dobutrex sẽ chỉ dung nạp được một phần, vàtrở thành có ý nghĩa thống kê sau khi truyền 72 giờ. Ở người bệnh suy tim ứ huyết,ảnh hưở ...