Danh mục

Đôi mắt Đông Hoàng

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 173.13 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tháng 10 năm 2007, tôi là một trong hai tám thành viên Việt Nam tham dự chương trình Tàu Thanh niên Đông Nam Á. Hành trình của chúng tôi đi qua Nhật và một số nước Đông Nam Á. Trong hai tháng đi trên biển và ở trên đất liền, cô bạn người Nhật, Emi Morita kể cho tôi câu chuyện về người ông của mình từng làm phiên dịch trong thời kỳchiến tranh ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đôi mắt Đông Hoàng Đôi mắt Đông Hoàng TRUYỆN NGẮN CỦA UÔNG TRIỀUTháng 10 năm 2007, tôi là một trong hai tám thành viên Việt Nam tham dự chương trìnhTàu Thanh niên Đông Nam Á. Hành trình của chúng tôi đi qua Nhật và một số nướcĐông Nam Á. Trong hai tháng đi trên biển và ở trên đất liền, cô bạn người Nhật, EmiMorita kể cho tôi câu chuyện về người ông của mình từng làm phiên dịch trong thờikỳchiến tranh ở Việt Nam. Câu chuyện của Emi Morita bắt đầu khi chúng tôi lên tàu ởYokohama, khi biển rất yên bình và trong đoàn chúng tôi chưa ai bị say sóng cả.***Tháng 9 năm 1940 quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương.Trong hàng nghìn những chiến binh sẵn sàng chết vì thiên hoàng, có một người lính -phiên dịch của quân đội, đến từ Kitakiushu, thủ phủ của đảo Kyushu, phía nam Nhật Bản.Katsu - hai mươi sáu tuổi.Ở trên bản đồ nước Việt Nam, có một vết chấm nhỏ ghi tên một địa danh ở miền ĐôngBắc, huyện Đông Hoàng. Nơi Katsu sẽ phải đến đó trong một thời gian làm công việcphiên dịch.Katsu đặt chân đến vùng Đông Bắc trong một ngày tháng mười cùng một toán binh Nhật.Đông Hoàng là một huyện nhỏ nhưng nằm ở vị trí quan trọng, án ngữ con đường vàovùng Đông Bắc và có nhiều đường sông toả đi các nơi. Ở trung tâm huyện lị có cả đồnbinh Pháp và đồn binh Nhật.Khi đoàn binh Nhật đến trung tâm huyện lị, mặt trời đã vượt quá đỉnh đầu. Nắng khônggay gắt nhưng không hề có một phút râm mát. Những tia nắng quái như lưỡi cỏ xướcquất vào mặt những chiến binh Nhật gươm súng chỉnh tề. Mùa đông ở Đông Hoàngkhông giống với mùa đông ở Kitakiushu.Vài đứa trẻ con đứng ở vệ đường tò mò nhìn những người lính Nhật. Những đứa bé hơnnép vào chân mẹ nhìn ngước ra. Không hề có tiếng khóc.Katsu đã đọc tài liệu trước khi đến Việt Nam. Một đất nước nửa phong kiến, nửa thuộcđịa, nghèo nàn nhưng đã từng đánh bại quân đội của đế quốc Trung Hoa hùng mạnh lánggiềng. Người Pháp và người Nhật đang giành quyền kiểm soát ở đây.Những ghi chép lịch sử báo hiệu một cuộc chiến sẽ không dễ chịu gì. Binh lính Nhật sẽphải chiến đấu với quân Pháp, người bản xứ, khí hậu, bệnh tật. Một cuộc chiến chưa ainhìn thấy kết thúc thế nào.Katsu được phép ngủ một giấc dài trước khi tìm hiểu cụ thể về vùng đất Đông Bắc này.Không khí chiến tranh chưa nồng nặc thuốc súng. Người Nhật và người Pháp đang tạmthời hòa hoãn với nhau, dân bản xứ chưa có biểu hiện chống đối mạnh mẽ nào. Một vùnggió lặng trước khi bão tới? Bão tố đã giúp nước Nhật tránh được hai cuộc xâm lăng lớncủa đế quốc Nguyên Mông, nhưng bão tố cũng cướp đi nhiều sinh mạng của chính nướcNhật.Công việc đầu tiên của Katsu là cùng một toán binh lính Nhật, binh lính người Việt đi thugóp lương thực cho cuộc chiến. Quân đội Nhật nhắm tới đầu tiên là những gia đình giàucó trong vùng, họ tránh chưa vơ vét toàn bộ dân chúng để làm yên lòng người.Con đường đi vào làng lốm đốm đen những bãi phân súc vật. Mặt đất rụng đầy lá tre úavàng. Những rặng tre rậm rạp, ken vào như một bức tường thành. Tiếng cành cây cọ vàonhau kọt kẹt như tiếng kéo của những đoàn xe ngựa đưa các lãnh chúa Nhật di chuyểnluân phiên giữa các vùng để tránh lộng quyền thời trung cổ.Những người đàn ông đầu trần, chân không mang bất cứ một loại giầy dép gì, xương gòmá bạnh ra, mắt lờ đờ, vác một loại nông cụ trên vai. Nhẫn nhục, cam chịu. Những ngườiđàn bà đội những chiếc nón tụt chóp, chỉ ngẩng một nửa khuôn mặt lên để nhìn. Nhữngchiếc nón lá không giống loại nón ở Nhật. Những người đàn ông, đàn bà ở xứ này nhưnhững người Nhật sống trước thời Minh Trị. Nghèo, u buồn.Phía trước là một ngôi làng lớn.Katsu cùng đám binh lính bước vào một chiếc cổng làm bằng thân tre. Tiếng chó sủavang, ba con chó bản địa, to hơn loại chó Nhật xù lông, hung hăng, sủa rất to. Chân saucủa lũ chó dạng ra thế thủ, mõm vươn về phía trước, răng nhe ra đe dọa. Vô ích. Một lưỡikiếm tuốt trần, một tiếng tru thảm thiết, tiếng sủa vẫn tiếp tục nhưng lùi ra xa và yếu dần.Bặt hẳn.Một người đàn ông trung niên, râu để dài, quần áo luộm thuộm chạy ra đón đoàn binhlính gươm súng lạnh lùng đến thăm nhà. Ông ta mặc chiếc quần rộng thùng thình, đũngdài gần tới đầu gối, nhưng ống quần ngắn, chưa chạm mắt cá chân. Phía sau là hai ngườiphụ nữ đang đứng nép vào hàng cột gỗ. Một thằng bé khom lưng đứng cạnh cửa chính.Tiếng kim loại của đoàn binh va vào nhau khô khốc. Thằng bé run bần bật.- Chúng ta đến đây để nhận sự quyên góp lương thực cho quân đội của thiên hoàng.- Bẩm, không dám trái ý.- Lấy ngay bây giờ.- Bẩm, đã chuẩn bị sẵn.Hai người đàn bà khi nãy nép theo hai hàng cột đi vội về phía sau nhà, rồi ra cùng lúc.Một trung niên, một trẻ. Hai người đàn bà mang ra một thứ nước màu vàng thẫm mờinhững vị khách đường đột đến nhà. Người đàn ông rót một bát nước đầy, uống trước.Không phải thuốc độc. Một thứ nước hơi chát, ấm nóng, không giống loại trà màu xanh,được làm bằng bột lá chè nghiền mịn, đặc sệt, chỉ uống từng ngụm nhỏ ...

Tài liệu được xem nhiều: