Đổi mới quy trình làm chính sách của Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 248.39 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không dựa trên nền tảng của hệ thống chính sách tốt mà nhờ vào việc trước đây, nền kinh tế này hoàn toàn đóng, không giao thiệp với thế giới. Khi tự do hóa, mở cửa, Việt Nam cùng với Trung Quốc trở thành "mặt trận kinh tế mới" ở châu Á, nơi mọi người đều muốn vào đầu tư.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đổi mới quy trình làm chính sách của Việt Nam Đổi mới quy trình làm chính sách của Việt Nam 1 Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản chia sẻ góc nhìn về quy trình xây dựng chính sách, chiến lược ngành của Việt Nam tại Diễn đàn phát triển Việt Nam. Thông tin Cải cách nền hành chính Nhà nước đăng lại bài của tác giả Phương Loan trên báo điện tử Vietnamnet.vn Việt Nam phát triển không nhờ chính sách tốt Giáo sư nhìn nhận như thế nào về mối liên hệ của sự phát triển của VN hiện nay với chính sách Chính phủ đưa ra? Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không dựa trên nền tảng của hệ thống chính sách tốt mà nhờ vào việc trước đây, nền kinh tế này hoàn toàn đóng, không giao thiệp với thế giới. Khi tự do hóa, mở cửa, Việt Nam cùng với Trung Quốc trở thành mặt trận kinh tế mới ở châu Á, nơi mọi người đều muốn vào đầu tư. Việt Nam lại có lực lượng lao động tương đối tốt. Nguồn nhân lực là nhân tố thu hút các nhà đầu tư đến, khiến nguồn FDI tăng nhanh. Hai điểm này định vị Việt Nam ở vị trí giữa tại châu Á. Tuy nhiên, FDI vào Việt Nam không phải vì chính sách tốt, ngược lại, chính sách của Việt Nam vẫn rất tệ so với khu vực. Qua khảo sát của VDF với các nhà đầu tư tại Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan về quy trình xây dựng chính sách công nghiệp cho thấy, các nước này không hề có vấn đề gì trong chất lượng chính sách. Giữa khu vực doanh nghiệp và Chính phủ có sự tin cậy lẫn nhau, cùng thảo luận. Trong khi đó, Việt Nam tồn tại nhiều vấn đề về chính sách, dù đã có bước tiến dài trong cải thiện môi trường đầu tư từ một xuất phát điểm thấp. Quy trình hoạch định chính sách, Việt Nam có một không hai Cụ thể những hạn chế chính sách đó là gì, thưa ông? Hầu hết chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Chính sách doanh nghiệp ủng hộ. Hơn nữa, các chính sách không có sự phối hợp giữa các Bộ, chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên. 2 Việt Nam có quá nhiều chiến lược ngành. Mỗi chiến lược chỉ do vài người làm, trong thời gian ngắn, với chất lượng không cao. Chính phủ lựa chọn ưu tiên và quyết định kế hoạch. Ở bất kì chính sách nào, việc xây dựng đều quá phân tán, và có quá nhiều sự chồng lấn. Ví dụ, nếu muốn xử lý vấn đề môi trường liên quan đến ôtô, bạn cần gặp đại Quy trình soạn thảo chính sách hiện hành của Việt Nam diện Bộ Công thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Khoa học - Công nghệ, lực lượng cảnh sát giao thông... và không một cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ đạo trong việc này. Các chính sách khác cũng tương tự. Có quá nhiều trách nhiệm cấp bộ chồng lấn lên nhau. Trong đó, định hướng lớn, không cơ quan nào ra quyết định. Chính phủ Việt Nam hiện làm quá nhiều. Cán bộ nhà nước phải xây dựng quá nhiều kế hoạch, chiến lược với nguồn lực hạn chế cả về tài chính và nhân lực. Chỉ có Việt Nam áp dụng một quy trình lập chính sách kì lạ, có một không hai như vậy. Ở Thái Lan, Chính phủ không đưa ra chiến lược ngành. Đại diện doanh nghiệp đưa ra là người đưa ra chiến lược, và Chính phủ chỉ có nhiệm vụ nhận và chấp thuận những kiến nghị đó. Đây là cách làm tích cực, thúc đẩy khu vực tư nhận tự xác định mục tiêu và kế hoạch hành động. Ở khía cạnh đó, Việt Nam còn phải đi một chặng đường dài để học tập. Phải chăng cộng đồng doanh nghiệp cũng chưa thực sự chủ động tham gia vào quy trình hoạch định chính sách? Đúng vậy, bởi vì họ không được chào mời tham gia với Chính phủ trong việc này. 3 Di sản của cơ chế cũ Vậy lí do của việc Việt Nam áp dụng quy trình có một không hai đó là gì? Phải chăng nó xuất phát từ cơ chế của Việt Nam? Khu vực tư nhân của Việt Nam rất linh hoạt. Khi bước vào nhà hàng, đi taxi... ông chủ và nhân viên đều biết cách thích ứng với những đòi hỏi của khách hàng càng nhiều càng tốt. Ngược lại, khối nhà nước rất kém linh hoạt. Tôi tự hỏi tại sao Việt Nam không biến đặc trưng linh hoạt của khu vực tư nhân thành đặc trưng quốc gia? Có lẽ nguyên nhân một phần bởi cấu trúc Chính phủ. Thời kì kế hoạch hóa đã qua nhưng có vẻ hệ thống cũ vẫn còn duy trì. Di sản của thời kì kế hoạch hóa còn lớn trong khu vực nhà nước và chỉ có ở VN. Các quốc gia khác như Nga, Đông Âu, khi Chính phủ kế hoạch hóa sụp đổ, họ bắt đầu làm việc theo một cách thức mới. Không bị vướng bận bởi di sản kế hoạch hóa sâu đậm, các nước này áp dụng mô hình kinh tế phương Tây, tự do hóa thương mại nhanh hơn. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam không thay đổi về mặt cơ học. Năng lực vẫn như cũ với những con người cũ tiếp tục làm việc, do đó, tiến trình thay đổi chậm hơn các nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền tảng của kinh tế thị trường là quy luật tuân thủ theo đòi hỏi thị trường, hướng tới người ti ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đổi mới quy trình làm chính sách của Việt Nam Đổi mới quy trình làm chính sách của Việt Nam 1 Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản chia sẻ góc nhìn về quy trình xây dựng chính sách, chiến lược ngành của Việt Nam tại Diễn đàn phát triển Việt Nam. Thông tin Cải cách nền hành chính Nhà nước đăng lại bài của tác giả Phương Loan trên báo điện tử Vietnamnet.vn Việt Nam phát triển không nhờ chính sách tốt Giáo sư nhìn nhận như thế nào về mối liên hệ của sự phát triển của VN hiện nay với chính sách Chính phủ đưa ra? Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không dựa trên nền tảng của hệ thống chính sách tốt mà nhờ vào việc trước đây, nền kinh tế này hoàn toàn đóng, không giao thiệp với thế giới. Khi tự do hóa, mở cửa, Việt Nam cùng với Trung Quốc trở thành mặt trận kinh tế mới ở châu Á, nơi mọi người đều muốn vào đầu tư. Việt Nam lại có lực lượng lao động tương đối tốt. Nguồn nhân lực là nhân tố thu hút các nhà đầu tư đến, khiến nguồn FDI tăng nhanh. Hai điểm này định vị Việt Nam ở vị trí giữa tại châu Á. Tuy nhiên, FDI vào Việt Nam không phải vì chính sách tốt, ngược lại, chính sách của Việt Nam vẫn rất tệ so với khu vực. Qua khảo sát của VDF với các nhà đầu tư tại Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan về quy trình xây dựng chính sách công nghiệp cho thấy, các nước này không hề có vấn đề gì trong chất lượng chính sách. Giữa khu vực doanh nghiệp và Chính phủ có sự tin cậy lẫn nhau, cùng thảo luận. Trong khi đó, Việt Nam tồn tại nhiều vấn đề về chính sách, dù đã có bước tiến dài trong cải thiện môi trường đầu tư từ một xuất phát điểm thấp. Quy trình hoạch định chính sách, Việt Nam có một không hai Cụ thể những hạn chế chính sách đó là gì, thưa ông? Hầu hết chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Chính sách doanh nghiệp ủng hộ. Hơn nữa, các chính sách không có sự phối hợp giữa các Bộ, chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên. 2 Việt Nam có quá nhiều chiến lược ngành. Mỗi chiến lược chỉ do vài người làm, trong thời gian ngắn, với chất lượng không cao. Chính phủ lựa chọn ưu tiên và quyết định kế hoạch. Ở bất kì chính sách nào, việc xây dựng đều quá phân tán, và có quá nhiều sự chồng lấn. Ví dụ, nếu muốn xử lý vấn đề môi trường liên quan đến ôtô, bạn cần gặp đại Quy trình soạn thảo chính sách hiện hành của Việt Nam diện Bộ Công thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Khoa học - Công nghệ, lực lượng cảnh sát giao thông... và không một cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ đạo trong việc này. Các chính sách khác cũng tương tự. Có quá nhiều trách nhiệm cấp bộ chồng lấn lên nhau. Trong đó, định hướng lớn, không cơ quan nào ra quyết định. Chính phủ Việt Nam hiện làm quá nhiều. Cán bộ nhà nước phải xây dựng quá nhiều kế hoạch, chiến lược với nguồn lực hạn chế cả về tài chính và nhân lực. Chỉ có Việt Nam áp dụng một quy trình lập chính sách kì lạ, có một không hai như vậy. Ở Thái Lan, Chính phủ không đưa ra chiến lược ngành. Đại diện doanh nghiệp đưa ra là người đưa ra chiến lược, và Chính phủ chỉ có nhiệm vụ nhận và chấp thuận những kiến nghị đó. Đây là cách làm tích cực, thúc đẩy khu vực tư nhận tự xác định mục tiêu và kế hoạch hành động. Ở khía cạnh đó, Việt Nam còn phải đi một chặng đường dài để học tập. Phải chăng cộng đồng doanh nghiệp cũng chưa thực sự chủ động tham gia vào quy trình hoạch định chính sách? Đúng vậy, bởi vì họ không được chào mời tham gia với Chính phủ trong việc này. 3 Di sản của cơ chế cũ Vậy lí do của việc Việt Nam áp dụng quy trình có một không hai đó là gì? Phải chăng nó xuất phát từ cơ chế của Việt Nam? Khu vực tư nhân của Việt Nam rất linh hoạt. Khi bước vào nhà hàng, đi taxi... ông chủ và nhân viên đều biết cách thích ứng với những đòi hỏi của khách hàng càng nhiều càng tốt. Ngược lại, khối nhà nước rất kém linh hoạt. Tôi tự hỏi tại sao Việt Nam không biến đặc trưng linh hoạt của khu vực tư nhân thành đặc trưng quốc gia? Có lẽ nguyên nhân một phần bởi cấu trúc Chính phủ. Thời kì kế hoạch hóa đã qua nhưng có vẻ hệ thống cũ vẫn còn duy trì. Di sản của thời kì kế hoạch hóa còn lớn trong khu vực nhà nước và chỉ có ở VN. Các quốc gia khác như Nga, Đông Âu, khi Chính phủ kế hoạch hóa sụp đổ, họ bắt đầu làm việc theo một cách thức mới. Không bị vướng bận bởi di sản kế hoạch hóa sâu đậm, các nước này áp dụng mô hình kinh tế phương Tây, tự do hóa thương mại nhanh hơn. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam không thay đổi về mặt cơ học. Năng lực vẫn như cũ với những con người cũ tiếp tục làm việc, do đó, tiến trình thay đổi chậm hơn các nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền tảng của kinh tế thị trường là quy luật tuân thủ theo đòi hỏi thị trường, hướng tới người ti ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chính sách Việt Nam quản lý Nhà nước kinh tế chính trị quản lý kinh tế đặc điểm kinh tếTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế: Phần 1 - GS. TS Đỗ Hoàng Toàn
238 trang 413 2 0 -
Doanh nghiệp bán lẻ: Tự bơi hay nương bóng?
3 trang 389 0 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 314 0 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 296 0 0 -
Chống 'chạy chức, chạy quyền' - Một giải pháp chống tham nhũng trong công tác cán bộ
11 trang 289 0 0 -
2 trang 281 0 0
-
3 trang 276 6 0
-
197 trang 275 0 0
-
17 trang 261 0 0
-
Tổng luận Giải pháp chính sách phát triển nền kinh tế số
46 trang 248 1 0