Đồn điền cao su ở Nam Kì thời thuộc Pháp: Lối thoát cho cuộc sống bần cùng hay con đường dẫn tới 'địa ngục trần gian' của người lao động Việt Nam
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 562.51 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Từ những thử nghiệm ban đầu vào năm 1897, đồn điền cao su ở Nam Kì phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế thu hút một lực lượng lao động đông đảo đến từ Bắc Kì, Trung Kì.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đồn điền cao su ở Nam Kì thời thuộc Pháp: Lối thoát cho cuộc sống bần cùng hay con đường dẫn tới “địa ngục trần gian” của người lao động Việt NamHNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2019-0049Social Sciences, 2019, Volume 64, Issue 8, pp. 85-96This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐỒN ĐIỀN CAO SU Ở NAM KÌ THỜI THUỘC PHÁP: LỐI THOÁT CHO CUỘC SỐNG BẦN CÙNG HAY CON ĐƯỜNG DẪN TỚI “ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN” CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ? Trần Xuân Trí Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Từ những thử nghiệm ban đầu vào năm 1897, đồn điền cao su ở Nam Kì phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế thu hút một lực lượng lao động đông đảo đến từ Bắc Kì, Trung Kì. Là nạn nhân của chính sách cướp đoạt ruộng đất, bóc lột thuế khóa, một bộ phận lớn nông dân bị bần cùng hóa, không tấc đất cắm dùi đã vào làm việc trong các đồn điền cao su ở Nam Kì với hy vọng thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ nơi thôn quê. Khác xa với những lời hứa khi tuyển mộ và quy chế lao động của chính quyền, trong các đồn điền cao su, người lao động phải làm việc nặng nhọc liên tục từ 12 đến 14 giờ/ngày. Trong khi đó tiền công thấp, điều kiện ăn ở tồi tệ, lại bị điền chủ Pháp và cai đồn điền đối xử tàn nhẫn nên lực lượng lao động trên đồn điền cao su bị đẩy vào vòng cùng quẫn, nợ nần. Đối với người lao động, đồn điền cao su được ví như một địa ngục trần gian, một xã hội thu nhỏ của xã hội thuộc địa Việt Nam. Từ khóa: Đồn điền cao su, Nam Kì thuộc Pháp, người lao động.1. Mở đầuVấn đề lao động trong đồn điền cao su ở Nam Kì là một trong những vấn đề đã đượcmột số nhà sử học Việt Nam quan tâm nghiên cứu, như: Địa ngục cao su của NguyễnHải Trừng xuất bản năm 1955 [1], Giai cấp công nhân Việt Nam của Trần Văn Giàucông bố năm 1961[2], Tư bản Pháp và vấn đề cao su ở miền Nam Việt Nam của NguyễnPhong, xuất bản năm 1963 [3]. Đặc biệt năm 1965, Trần Tử Bình, người đã từng làmviệc ba năm (1927-1930) ở đồn điền cao su Phú Riềng thuộc Công ti cao su Michelin,đã cho công bố cuốn hồi kí Phú Riềng đỏ kể về cuộc sống của lao động người Việt ởđồn điền Phú Riềng [4]. Mới đây nhất, năm 2000, trong cuốn Một trăm năm cao su ởViệt Nam, tác giả Đặng Văn Vinh cũng dành một thời lượng đáng kể đề cập tới đời sốngngười lao động trên đồn điền cao su ở Nam Kì [5]. Về cơ bản, các nghiên cứu kể trên đãphác họa được cuộc sống của người lao động Việt Nam dưới sự bóc lột của tư bản và điềnchủ Pháp. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu tiếng Việt: cadao, hồi kí,… Chính vì thế kết quả nghiên cứu còn thiếu tính thực chứng và cụ thể.Ngày nhận bài: 19/6/2019. Ngày sửa bài: 2/8/2019. Ngày nhận đăng: 13/8/2019.Tác giả liên hệ: Trần Xuân Trí. Địa chỉ e-mail: tritx@hnue.edu.vn 85 Trần Xuân Trí Dựa trên nguồn tư liệu tiếng Pháp khai thác được, đặc biệt là tư liệu lưu trữ bảoquản tại các trung tâm lưu trữ ở Việt Nam (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) vàTrung tâm lưu trữ Hải ngoại Pháp (Aix-en-Provence), chúng tôi muốn đề cập cụ thểhơn, làm rõ thêm, đặc biệt là quan điểm, đánh giá của chính giới sử học Pháp và chínhquyền thuộc địa về lực lượng lao động trên đồn điền cao su ở Nam Kì.2. Nội dung nghiên cứu2.1. Quá tải dân số, sự nghèo đói ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nhu cầu lớnvề lao động cho khai thác đồn điền cao su ở Nam Kì Trong thời kì thuộc địa, Bắc Kì, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Hồng là vùngđông dân cư nhất Việt Nam và cũng đông dân nhất trong các xứ thuộc Liên bang ĐôngDương. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 1. Phân bố dân cứ theo các xứ thuộc Liên bang Đông Dương 1911-1921 Dân số (triệu người) Diện tích tự nhiên Xứ (km2) Năm 1911 Năm 1921 Bắc Kì 116.000 6,119 6,870 Trung Kì 140.000 2,993 4,944 Nam Kì 60.000 3,032 3,864 Campuchia 120.000 1,634 2,402 Lào 230.000 0,641 0,819 Tổng 666.000 14,419 18.899 Nguồn: [ 6; tr.16]. Diện tích tự nhiên của Bắc Kì chỉ chiếm 17% diện tích tự nhiên của Đông Dương(không bao gồm Quảng Châu Loan), nhưng dân số chiếm tới 42% năm 1911 và 36%năm 1921. Miền Nam Đông Dương bao gồm Nam Kì và Campuch ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đồn điền cao su ở Nam Kì thời thuộc Pháp: Lối thoát cho cuộc sống bần cùng hay con đường dẫn tới “địa ngục trần gian” của người lao động Việt NamHNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2019-0049Social Sciences, 2019, Volume 64, Issue 8, pp. 85-96This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐỒN ĐIỀN CAO SU Ở NAM KÌ THỜI THUỘC PHÁP: LỐI THOÁT CHO CUỘC SỐNG BẦN CÙNG HAY CON ĐƯỜNG DẪN TỚI “ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN” CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ? Trần Xuân Trí Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Từ những thử nghiệm ban đầu vào năm 1897, đồn điền cao su ở Nam Kì phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế thu hút một lực lượng lao động đông đảo đến từ Bắc Kì, Trung Kì. Là nạn nhân của chính sách cướp đoạt ruộng đất, bóc lột thuế khóa, một bộ phận lớn nông dân bị bần cùng hóa, không tấc đất cắm dùi đã vào làm việc trong các đồn điền cao su ở Nam Kì với hy vọng thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ nơi thôn quê. Khác xa với những lời hứa khi tuyển mộ và quy chế lao động của chính quyền, trong các đồn điền cao su, người lao động phải làm việc nặng nhọc liên tục từ 12 đến 14 giờ/ngày. Trong khi đó tiền công thấp, điều kiện ăn ở tồi tệ, lại bị điền chủ Pháp và cai đồn điền đối xử tàn nhẫn nên lực lượng lao động trên đồn điền cao su bị đẩy vào vòng cùng quẫn, nợ nần. Đối với người lao động, đồn điền cao su được ví như một địa ngục trần gian, một xã hội thu nhỏ của xã hội thuộc địa Việt Nam. Từ khóa: Đồn điền cao su, Nam Kì thuộc Pháp, người lao động.1. Mở đầuVấn đề lao động trong đồn điền cao su ở Nam Kì là một trong những vấn đề đã đượcmột số nhà sử học Việt Nam quan tâm nghiên cứu, như: Địa ngục cao su của NguyễnHải Trừng xuất bản năm 1955 [1], Giai cấp công nhân Việt Nam của Trần Văn Giàucông bố năm 1961[2], Tư bản Pháp và vấn đề cao su ở miền Nam Việt Nam của NguyễnPhong, xuất bản năm 1963 [3]. Đặc biệt năm 1965, Trần Tử Bình, người đã từng làmviệc ba năm (1927-1930) ở đồn điền cao su Phú Riềng thuộc Công ti cao su Michelin,đã cho công bố cuốn hồi kí Phú Riềng đỏ kể về cuộc sống của lao động người Việt ởđồn điền Phú Riềng [4]. Mới đây nhất, năm 2000, trong cuốn Một trăm năm cao su ởViệt Nam, tác giả Đặng Văn Vinh cũng dành một thời lượng đáng kể đề cập tới đời sốngngười lao động trên đồn điền cao su ở Nam Kì [5]. Về cơ bản, các nghiên cứu kể trên đãphác họa được cuộc sống của người lao động Việt Nam dưới sự bóc lột của tư bản và điềnchủ Pháp. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu tiếng Việt: cadao, hồi kí,… Chính vì thế kết quả nghiên cứu còn thiếu tính thực chứng và cụ thể.Ngày nhận bài: 19/6/2019. Ngày sửa bài: 2/8/2019. Ngày nhận đăng: 13/8/2019.Tác giả liên hệ: Trần Xuân Trí. Địa chỉ e-mail: tritx@hnue.edu.vn 85 Trần Xuân Trí Dựa trên nguồn tư liệu tiếng Pháp khai thác được, đặc biệt là tư liệu lưu trữ bảoquản tại các trung tâm lưu trữ ở Việt Nam (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) vàTrung tâm lưu trữ Hải ngoại Pháp (Aix-en-Provence), chúng tôi muốn đề cập cụ thểhơn, làm rõ thêm, đặc biệt là quan điểm, đánh giá của chính giới sử học Pháp và chínhquyền thuộc địa về lực lượng lao động trên đồn điền cao su ở Nam Kì.2. Nội dung nghiên cứu2.1. Quá tải dân số, sự nghèo đói ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nhu cầu lớnvề lao động cho khai thác đồn điền cao su ở Nam Kì Trong thời kì thuộc địa, Bắc Kì, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Hồng là vùngđông dân cư nhất Việt Nam và cũng đông dân nhất trong các xứ thuộc Liên bang ĐôngDương. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 1. Phân bố dân cứ theo các xứ thuộc Liên bang Đông Dương 1911-1921 Dân số (triệu người) Diện tích tự nhiên Xứ (km2) Năm 1911 Năm 1921 Bắc Kì 116.000 6,119 6,870 Trung Kì 140.000 2,993 4,944 Nam Kì 60.000 3,032 3,864 Campuchia 120.000 1,634 2,402 Lào 230.000 0,641 0,819 Tổng 666.000 14,419 18.899 Nguồn: [ 6; tr.16]. Diện tích tự nhiên của Bắc Kì chỉ chiếm 17% diện tích tự nhiên của Đông Dương(không bao gồm Quảng Châu Loan), nhưng dân số chiếm tới 42% năm 1911 và 36%năm 1921. Miền Nam Đông Dương bao gồm Nam Kì và Campuch ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đồn điền cao su Nam Kì thuộc Pháp Người lao động Xã hội thuộc địa Việt Nam Quy chế lao động của chính quyềnGợi ý tài liệu liên quan:
-
44 trang 301 0 0
-
Nâng cao lòng trung thành của người lao động tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hà Nội
6 trang 177 0 0 -
Bài tiểu luận môn Thị trường lao động: Thị trường lao động thành phố Hồ chí Minh giai đoạn 2010-2015
35 trang 152 0 0 -
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 tại Việt Nam
24 trang 130 0 0 -
Nhân tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên đối với trung tâm kinh doanh VNPT - Hậu Giang
18 trang 118 0 0 -
39 trang 114 0 0
-
52 trang 105 0 0
-
35 trang 90 0 0
-
26 trang 72 0 0
-
140 trang 43 0 0