Du kí Việt Nam trên chặng đầu hiện đại hóa _3
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 192.48 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Du ký không phải là chuyện lạ với văn học Việt Nam, càng không là chuyện lạ với văn học thế giới. Cùng với các cuộc phát kiến địa lý; các phát minh ra ô tô, tàu hỏa, tàu biển, tàu bay; việc mở mang thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Du kí Việt Nam trên chặng đầu hiện đại hóa _3Du kí Việt Namtrên chặng đầu hiện đại hóa Du ký không phải là chuyện lạ với văn học Việt Nam, càng không là chuyện lạvới văn học thế giới. Cùng với các cuộc phát kiến địa lý; các phát minh ra ô tô, tàu hỏa,tàu biển, tàu bay; việc mở mang thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc... thì văn học cũng mởra rất rộng đường biên cho sự miêu tả để đáp ứng nhu cầu tìm biết những chuyện lạ,mang theo chất exotique, không lúc nào và không ở đâu mà không cuốn hút con người.Còn ở ta, dẫu trong xã hội phong kiến phong bế, lạc hậu, con người vẫn có không ítnhững cuộc đi, ngắn hoặc dài, nhân đó, để lại cho văn chương những áng văn hay,không chỉ là giúp mở mang tri thức mà còn là in đậm cảm quan lịch sử và dấu ấn thờiđại như Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du... chođến những khổ thơ đi sứ của Phan Thanh Giản và Cao Bá Quát: Tân Gia từ vượt con tàu Mới hay vũ trụ một màu bao la Giật mình khi ở xó nhà Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi Chuyển sang thời hiện đại, khi văn minh phương Tây thâm nhập và làm thay đổiđời sống chính trị- kinh tế- xã hội và văn hóa- tinh thần của dân tộc thì đương nhiên vănhọc cũng có những thay đổi lớn. Chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán và chữ Nôm. Thơ vàvăn xuôi thay đổi diện mạo và chuyển đổi nhanh chóng theo mô hình phương Tây. Báochí và xuất bản do sự phát triển của nền kinh tế thuộc địa và đời sống đô thị mà trởthành phong trào vào ba thập niên đầu thế kỷ XX, trong đó 2 tờ có vai trò mở đầu quantrọng và tiếp nối nhau là Đông Dương tạp chí (1914-1917) của Nguyễn Văn Vĩnhvà Nam Phong tạp chí(1917-1934) của Phạm Quỳnh... Trong bối cảnh đó, du ký là thể văn xuôi có nhiều đất đai gieo trồng, để cùng vớitruyện ngắn, tiểu thuyết làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho văn học dân tộc chuyểnvào quỹ đạo của văn học hiện đại. Bộ sách lấy tên là Du ký Việt Nam, gồm 3 Tập, ngót 1900 trang, do Nguyễn HữuSơn sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Trẻ ấn hành năm 2007, là sự tập hợp 62 bài gọi là du kýđược đăng trên Nam Phong, từ 1917 đến 1934. 17 năm với 62 bài du ký, đứng ở thờiđiểm bây giờ mà nhìn thì không có gì làm nhiều. Nhưng ngược lên 80 năm về trước, khiphong trào báo chí và văn chương Quốc ngữ mới ở trong buổi đầu hình thành, thì đó lạilà một con số ấn tượng. 62 bài du ký, trong đó có những du ký đã sớm được in thành sách ngay sau khixuất hiện trên báo như Mười ngày ở Huế(1918) và Một tháng ở Nam Kỳ (1919) củaPhạm Quỳnh, Hạn mạn du ký (1921) của Nguyễn Bá Trác. Nhưng hội lại trong một bộsưu tập để có một gương mặt chung về du ký Việt Nam trên Nam Phong, hoặc rộng ra làdu ký trong hai thập niên trước mốc lịch sử 1930, thì đến bây giờ mới được làm, trongkhi đáng lẽ có thể làm sớm hơn, ít ra là khoảng dăm năm. Bởi việc đó, theo tôi có đemlại hứng thú và lợi ích cho nhiều giới nghề nghiệp, chẳng hạn khoa Du lịch học, khoaBảo tàng lịch sử và Bảo tàng danh nhân, cùng các giới nghiên cứu về khoa học xã hội,kể cả những người công tác ở các lĩnh vực hội họa, kiến trúc, điện ảnh... Do nhu cầu tìm hiểu về du ký, nên trong bài này tôi muốn tìm một cách tiếp cậnthích hợp với đặc trưng và mục tiêu của du ký, qua các câu hỏi chung quanh việc Đi. Đólà: Đi đâu? Bằng phương tiện gì? Ai đi và đi với ai? Và đi với mục đích gì? Đi đâu? Trước hết đó là các địa chỉ ở trong nước, từ Cao Bằng, Lạng Sơn ở cựcBắc đến Hà Tiên, Phú Quốc ở cực Nam, với độ dài nhiều nghìn cây số. Những cuộc vàoNam ra Bắc này rất đáng kể, vào một thời đất nước bị chia làm 3 miền với các thể chếchính trị khác nhau, nơi thì trực trị, nơi thì bảo hộ. Qua lại 3 miền, trên con đường xuyênViệt, nối liền các địa danh quá quen thân với người Việt, trong đó có những điểm nhấnlớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn... để thấy một cảnh quan chung, vừa có tínhthống nhất, vừa là sự đa dạng của các vùng- miền, của dân trí và dân sinh, tâm lý vànguyện vọng, phong tục và tập quán... đó cũng là biểu hiện khát vọng thống nhất củamột dân tộc vốn chịu nhiều sự phân cách và cắt chia trong lịch sử. Trên đất nước cóchiều dài cả về lịch sử và địa lý đó, dĩ nhiên các điểm đến cho khách đi (khách du lịch)sẽ là những danh lam thắng cảnh, gồm cả rừng và biển, cả miền núi và miền xuôi - nó làđặc trưng của xứ ta; sẽ là những địa đầu xa xôi và hiểm trở hoặc các trung tâm đô thị-văn minh; sẽ là những nơi lưu lại công tích của các danh nhân văn hóa và lịch sử... Một tỷ lệ không lớn lắm các cuộc đi là ra nước ngoài, như Cao Miên, Lào, XiêmLa và Viễn Đông - gồm Trung Hoa, Hương Cảng, Nhật Bản. Và vài cuộc đi dài sangPháp... Để đến với các địa chỉ đó, các ký giả, tức là người kể chuyện, đã đi bằng nhiềuphương tiện của đời sống văn minh, đó là ô tô, tàu hỏa, tàu biển... cho các hành trình xa;và thuyền, kiệu, cáng, hoặc xe đạp, xe tay cho các hành trình gần. Tất nhiên đi bộ cũnglà phương thức cần t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Du kí Việt Nam trên chặng đầu hiện đại hóa _3Du kí Việt Namtrên chặng đầu hiện đại hóa Du ký không phải là chuyện lạ với văn học Việt Nam, càng không là chuyện lạvới văn học thế giới. Cùng với các cuộc phát kiến địa lý; các phát minh ra ô tô, tàu hỏa,tàu biển, tàu bay; việc mở mang thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc... thì văn học cũng mởra rất rộng đường biên cho sự miêu tả để đáp ứng nhu cầu tìm biết những chuyện lạ,mang theo chất exotique, không lúc nào và không ở đâu mà không cuốn hút con người.Còn ở ta, dẫu trong xã hội phong kiến phong bế, lạc hậu, con người vẫn có không ítnhững cuộc đi, ngắn hoặc dài, nhân đó, để lại cho văn chương những áng văn hay,không chỉ là giúp mở mang tri thức mà còn là in đậm cảm quan lịch sử và dấu ấn thờiđại như Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du... chođến những khổ thơ đi sứ của Phan Thanh Giản và Cao Bá Quát: Tân Gia từ vượt con tàu Mới hay vũ trụ một màu bao la Giật mình khi ở xó nhà Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi Chuyển sang thời hiện đại, khi văn minh phương Tây thâm nhập và làm thay đổiđời sống chính trị- kinh tế- xã hội và văn hóa- tinh thần của dân tộc thì đương nhiên vănhọc cũng có những thay đổi lớn. Chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán và chữ Nôm. Thơ vàvăn xuôi thay đổi diện mạo và chuyển đổi nhanh chóng theo mô hình phương Tây. Báochí và xuất bản do sự phát triển của nền kinh tế thuộc địa và đời sống đô thị mà trởthành phong trào vào ba thập niên đầu thế kỷ XX, trong đó 2 tờ có vai trò mở đầu quantrọng và tiếp nối nhau là Đông Dương tạp chí (1914-1917) của Nguyễn Văn Vĩnhvà Nam Phong tạp chí(1917-1934) của Phạm Quỳnh... Trong bối cảnh đó, du ký là thể văn xuôi có nhiều đất đai gieo trồng, để cùng vớitruyện ngắn, tiểu thuyết làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho văn học dân tộc chuyểnvào quỹ đạo của văn học hiện đại. Bộ sách lấy tên là Du ký Việt Nam, gồm 3 Tập, ngót 1900 trang, do Nguyễn HữuSơn sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Trẻ ấn hành năm 2007, là sự tập hợp 62 bài gọi là du kýđược đăng trên Nam Phong, từ 1917 đến 1934. 17 năm với 62 bài du ký, đứng ở thờiđiểm bây giờ mà nhìn thì không có gì làm nhiều. Nhưng ngược lên 80 năm về trước, khiphong trào báo chí và văn chương Quốc ngữ mới ở trong buổi đầu hình thành, thì đó lạilà một con số ấn tượng. 62 bài du ký, trong đó có những du ký đã sớm được in thành sách ngay sau khixuất hiện trên báo như Mười ngày ở Huế(1918) và Một tháng ở Nam Kỳ (1919) củaPhạm Quỳnh, Hạn mạn du ký (1921) của Nguyễn Bá Trác. Nhưng hội lại trong một bộsưu tập để có một gương mặt chung về du ký Việt Nam trên Nam Phong, hoặc rộng ra làdu ký trong hai thập niên trước mốc lịch sử 1930, thì đến bây giờ mới được làm, trongkhi đáng lẽ có thể làm sớm hơn, ít ra là khoảng dăm năm. Bởi việc đó, theo tôi có đemlại hứng thú và lợi ích cho nhiều giới nghề nghiệp, chẳng hạn khoa Du lịch học, khoaBảo tàng lịch sử và Bảo tàng danh nhân, cùng các giới nghiên cứu về khoa học xã hội,kể cả những người công tác ở các lĩnh vực hội họa, kiến trúc, điện ảnh... Do nhu cầu tìm hiểu về du ký, nên trong bài này tôi muốn tìm một cách tiếp cậnthích hợp với đặc trưng và mục tiêu của du ký, qua các câu hỏi chung quanh việc Đi. Đólà: Đi đâu? Bằng phương tiện gì? Ai đi và đi với ai? Và đi với mục đích gì? Đi đâu? Trước hết đó là các địa chỉ ở trong nước, từ Cao Bằng, Lạng Sơn ở cựcBắc đến Hà Tiên, Phú Quốc ở cực Nam, với độ dài nhiều nghìn cây số. Những cuộc vàoNam ra Bắc này rất đáng kể, vào một thời đất nước bị chia làm 3 miền với các thể chếchính trị khác nhau, nơi thì trực trị, nơi thì bảo hộ. Qua lại 3 miền, trên con đường xuyênViệt, nối liền các địa danh quá quen thân với người Việt, trong đó có những điểm nhấnlớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn... để thấy một cảnh quan chung, vừa có tínhthống nhất, vừa là sự đa dạng của các vùng- miền, của dân trí và dân sinh, tâm lý vànguyện vọng, phong tục và tập quán... đó cũng là biểu hiện khát vọng thống nhất củamột dân tộc vốn chịu nhiều sự phân cách và cắt chia trong lịch sử. Trên đất nước cóchiều dài cả về lịch sử và địa lý đó, dĩ nhiên các điểm đến cho khách đi (khách du lịch)sẽ là những danh lam thắng cảnh, gồm cả rừng và biển, cả miền núi và miền xuôi - nó làđặc trưng của xứ ta; sẽ là những địa đầu xa xôi và hiểm trở hoặc các trung tâm đô thị-văn minh; sẽ là những nơi lưu lại công tích của các danh nhân văn hóa và lịch sử... Một tỷ lệ không lớn lắm các cuộc đi là ra nước ngoài, như Cao Miên, Lào, XiêmLa và Viễn Đông - gồm Trung Hoa, Hương Cảng, Nhật Bản. Và vài cuộc đi dài sangPháp... Để đến với các địa chỉ đó, các ký giả, tức là người kể chuyện, đã đi bằng nhiềuphương tiện của đời sống văn minh, đó là ô tô, tàu hỏa, tàu biển... cho các hành trình xa;và thuyền, kiệu, cáng, hoặc xe đạp, xe tay cho các hành trình gần. Tất nhiên đi bộ cũnglà phương thức cần t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3398 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 788 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 749 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 716 0 0 -
6 trang 610 0 0
-
2 trang 458 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 394 0 0 -
4 trang 369 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 314 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 244 0 0