Danh mục

Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn

Số trang: 9      Loại file: doc      Dung lượng: 104.00 KB      Lượt xem: 25      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) các nước có thể sử dụng các công cụ khác nhau: lãi suất, chính sách chiết khấu, thị trường mở... Trong đó, dự trữ bắt buộc là công cụ nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách - họ đã tốn không ít giấy mực để nói về dự trữ bắt buộc....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn PGS.,TS.Nguyễn Thị Nhung1 Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) các nước có thể sử dụng các công cụ khác nhau: lãi suất, chính sách chiết khấu, thị trường mở... Trong đó, dự trữ bắt bu ộc là công cụ nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách - họ đã tốn không ít giấy mực đ ể nói v ề dự tr ữ bắt buộc. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta ch ỉ nghiên c ứu mang tính lý thuyết ở các góc cạnh khác nhau của dự trữ bắt buộc và t ừ đó nhìn nhận lại thực tế với hy vọng là nguồn tham khảo cho nh ững ai quan tâm đến vấn đề này. Như một yêu cầu tất yếu, dự trữ bắt buộc ra đời: Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi các loại mà các ngân hàng th ương m ại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTƯ. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh ho ạt. N ếu nh ư các khoản cho vay đều có thời hạn, một ngày hay cho vay qua đêm cũng đều có thời hạn, thậm chí thời hạn có thể còn kéo dài h ơn d ự ki ến vì đ ến hạn thu nợ, có thể ngân hàng vẫn không thu được nợ - trong khi đó, đối với nguồn tiền gửi của khách hàng thì các ngân hàng lại rất khó khăn trong việc kiểm soát thời hạn, ngay cả khi gửi tiết kiệm có kỳ h ạn thì khách hàng gửi tiền vẫn có thể rút tiền trước khi đến h ạn; tình tr ạng ti ền cho vay ra chưa thu hồi về nhưng khách hàng gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền trước hạn là hiện tượng luôn có thể... Điều này cho th ấy r ủi ro thanh khoản luôn là mối lo của các NHTM. Mặt khác, trên thực t ế, th ời h ạn cho vay còn dài hơn thời hạn của nguồn tiền gửi, nói khác đi là kỳ h ạn g ửi tiền của mỗi loại tiền gửi không phải lúc nào cũng là cơ sở để xem xét và quyết định thời hạn cho vay, mà ngân hàng có thể khai thác tính ổn đ ịnh tương đối của tổng số dư tiền gửi không kỳ h ạn để cho vay có th ời h ạn, dùng nguồn tiền gửi thời hạn ngắn để cho vay với thời h ạn dài h ơn... nên nguy cơ rủi ro cao hơn. Khi rủi ro thanh khoản xảy ra, ngân hàng m ất kh ả năng thanh toán - các khoản tiền gửi ở các ngân hàng sẽ nhanh chóng “bay hơi”, không những thế nó còn làm “bay hơi” giá trị tài sản và các khoản dự trữ của ngân hàng đó và theo phản ứng dây chuyền thì rủi ro này s ẽ làm chấn động toàn hệ thống ngân hàng. Vì thế, như một kết quả c ần 1 Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh phải có, các nhà phân tích đã chỉ ra rằng các NHTM phải để dự trữ b ắt buộc vì đây chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời kỳ hoảng loạn. Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu tiên được sử dụng ở Mỹ vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tỷ lệ dự trữ bắt buộc dần được sử dụng phổ biến ở các nước khác. Và lúc này, người ta nhìn nhận dự trữ bắt buộc trong một vai trò khác - d ự trữ b ắt bu ộc là công c ụ để NHTƯ các nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách khác, dự trữ bắt buộc làm tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với quá trình cung ứng tiền. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ có thể tác động vào nguồn dự trữ, thay đổi vốn khả dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm năng tín dụng của các ngân hàng - nhưng NHTƯ không phải là người quyết định việc sử dụng các tiềm năng ấy. Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ 20, song ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ làm quen với khái niệm này vào năm 1990. Tháng 5/1990, sau khi “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam”, “Pháp lệnh Ngân hàng, các h ợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” được ban hành thì các NHTM Vi ệt Nam mới bắt đầu thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc. Tác động của dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đ ến ngu ồn vốn khả dụng của mỗi ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì phần chênh lệch còn lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác c ấp tín d ụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là h ệ số nhân tiền. Qua đó cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan h ệ ch ặt ch ẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: