Hoạt động của mọi cơ thể sống không phải lúc nào cũng giống nhau mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm. Những thay đổi này nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp theo từng chu kỳ, vì thế được gọi là nhịp sinh học. Từ nhịp sinh học làm nảy sinh ngành dược lý thời khắc nghiên cứu dùng thuốc theo đặc điểm sinh học. Trong cơ thể có nhiều đồng hồ sinh học Nhiều hoạt động của cơ thể như thân nhiệt, huyết áp, lượng hồng cầu, thành phần khí trong máu, lượng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dùng thuốc theo nhịp sinh học Dùng thuốc theo nhịp sinh họcHoạt động của mọi cơ thể sống không phải lúc nào cũnggiống nhau mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm.Những thay đổi này nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liêntiếp theo từng chu kỳ, vì thế được gọi là nhịp sinh học. Từnhịp sinh học làm nảy sinh ngành dược lý thời khắcnghiên cứu dùng thuốc theo đặc điểm sinh học.Trong cơ thể có nhiều đồng hồ sinh họcNhiều hoạt động của cơ thể như thân nhiệt, huyết áp,lượng hồng cầu, thành phần khí trong máu, lượng lipid vàglucid trong cơ thể, cường độ hoạt động của các tuyến nộitiết, tim, thận, phổi… đều thay đổi giống như có nhữngchiếc đồng hồ đâu đó trong cơ thể giúp xác định giờ giấchoạt động chính xác cho tất cả các tạng và tế bào.Mỗi tế bào, mỗi tạng cơ thể đều có “đồng hồ nhỏ” riêng,còn trong não thì có “đồng hồ lớn”. Các “đồng hồ” hoạtđộng theo chu kỳ riêng theo một quy luật nhất định. Dođó cần nghiên cứu các loại hoạt động của từng “đồng hồ”- nghĩa là của từng bộ phận, cơ quan của cơ thể để phòngtránh bệnh tật, điều trị và cho dùng thuốc có kết quả tốiưu.Những chu kỳ hoạt động sinh lý của con người (thức ngủ,tổng hợp protein, phân chia tế bào…) đều được chính các“đồng hồ” của cơ thể quy định, chứ không phải do môitrường xung quanh. Tuy nhiên, các đồng hồ sinh học phảiđược điều hòa phù hợp để luôn “chạy” đúng tính chu kỳkhông bị rối loạn.Trong thập niên 80 của thế kỷ vừa qua, kết quả nghiêncứu ở Hoa Kỳ trên hàng nghìn trường hợp bệnh đã xácnhận các triệu chứng và bệnh không biểu hiện ngẫu nhiêntrong ngày cũng như trong năm, mà thường xuất hiệnnhiều hơn trong một số giờ và mùa nhất định.Nghiên cứu nhịp ngày đêm, người ta thấy vào khoảng 1giờ đêm giấc ngủ thường không sâu, dễ nhạy cảm vớinhững cơn đau, 2 giờ đêm các bộ phận cơ thể đều hoạtđộng ở mức thấp nhất… Và 9 - 10 giờ sáng tinh thầnhưng phấn, sự nhạy cảm với những cơn đau giảm. Chọn thời điểm dùng thuốc phù hợp để đạt hiệu quả điều trị.Chọn thời điểm dùng thuốcKhi hiểu biết về nhịp sinh học sẽ có cơ sở khoa học đểtính toán và lựa chọn thời điểm dùng thuốc sao cho cácthuốc có thể phát huy tác dụng tối ưu mà lại hạn chế đượctác dụng phụ. Do ở mỗi thời điểm, sự đáp ứng của cơ thểđối với thuốc là khác nhau, bao gồm cả khả năng thíchứng của cơ thể (dung nạp thuốc) và khả năng chuyển hóathuốc.Các loại thuốc khi hấp thu vào cơ thể sẽ phát huy tác dụngtùy thuộc vào nhiều yếu tố nhưng quyết định nhất là sựchuyển hóa. Thuốc chuyển hóa nhanh, tác dụng dược lýsẽ mạnh nhưng ngắn. Nếu có chất chuyển hóa là chất độc,có thể thuốc sẽ gây độc. Chuyển hóa quá chậm tác dụngsẽ yếu và kéo dài, thuốc tích lũy trong cơ thể và chậm bàitiết ra ngoài. Nếu thuốc ít nhiều có tính độc sẽ có hại chocơ thể.Qua nhiều nghiên cứu cấu trúc sinh học theo thời gian,người ta thấy sự chuyển hóa trong cơ thể không phải lúcnào cũng như nhau. Các enzym hoạt động theo nhịp 24giờ, lúc mạnh lúc yếu, vì thế khả năng chuyển hóa thuốccủa cơ thể cũng biến đổi tương ứng. Sức chịu đựng cácyếu tố độc hại của cơ thể thay đổi theo một chu kỳ có thểbiết trước. Bởi vậy, việc nghiên cứu thời điểm dùng thuốcđể đạt hiệu quả tối ưu cho từng loại thuốc tự nhiên đượcđặt ra và đã có nhiều công trình khoa học làm sáng tỏ vấnđề này. Một môn khoa học mới được hình thành đó làmôn “Dược lý thời khắc” (chronopharmacologie) - mộtngành chuyên khoa của “Thời sinh học” (chronobiologie).Từ lâu, người ta đã phát hiện thấy trên lâm sàng, tiêmstrophantin vào chiều tối có hiệu lực hơn ban ngày. Cácthuốc ngủ, thuốc lợi niệu hay strycnin cũng có tác dụngmạnh hơn vào buổi chiều. Penicillin tiêm vào chiều tốibao giờ cũng cho nồng độ cao hơn và giữ được lâu hơn làtiêm buổi sáng hay ban ngày. Nhưng ngược lại, các thuốcgiải phóng adrenalin tác dụng đến hệ cơ phế quản mạnhhơn vào buổi sáng.Trong nha khoa, người ta thấy cùng một liều thuốc gây tênhưng thời gian tê ở người bệnh có thể xê dịch trong mộtphạm vi rộng từ 30 - 80 phút tùy theo giờ sử dụng. Buổisáng, thời gian gây tê ngắn nhất và buổi chiều vào khoảng15 giờ thì lại dài nhất.Với morphin thì có tác dụng ổn định trong cả năm, nhưngcác loại thuốc nội tiết thì tác dụng theo mùa. Sự biến đổitác dụng thể hiện cả về lượng và chất. Như cortisol tăngtính thấm của thành mạch về mùa xuân, nhưng ACTH lạitác dụng mạnh vào mùa hè. Vào các mùa khác, hai thứthuốc làm giảm tính thấm của thành mạch.Tác dụng kích thích thần kinh trung ương của nhân sâmmạnh nhất vào mùa thu và đông, còn về mùa hè và mùaxuân tác dụng thấp nhất…Qua những dẫn liệu trên cho thấy, hiệu quả và độc tínhcủa thuốc không chỉ phụ thuộc vào phương pháp dùng,mà nó còn phụ thuộc cả vào thời điểm dùng trong chu kỳsinh học. Khi hiểu biết đầy đủ về dược lý thời khắc, thầythuốc sẽ biết rõ nên sử dụng loại thuốc nào cũng như vàothời điểm nào là tốt nhất để điều trị cho bệnh nhân. Đóchính là nội dung hữu ích lựa chọn thời điểm dùng thuốclàm tăng hiệu quả của dược phẩm k ...