Danh mục

Flash Photography, Flash metering (TTL , A-TTL, E-TTL, E-TTL II)

Số trang: 33      Loại file: pdf      Dung lượng: 315.34 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 16,000 VND Tải xuống file đầy đủ (33 trang) 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khi trang bị các accessories cho chiếc (D)SLR của mình, sau những gam ống kính thì ta thường nghĩ đến một chiếc đèn flash. Đây hẳn là một thiết bị không thể thiếu và nếu biết tận dụng nó thì sẽ phát huy nhiều lợi ích trong nhiếp ảnh. Bản thân tôi cũng ít khi chụp với flash, và khi bắt đầu sử dụng flash unit cũng rất lúng túng và hầu như đặt ở chế độ Auto (hoặc P). Vì vậy, kinh nghiệm sử dụng flash của tôi không nhiều, đồng thời việc sử dụng flash cũng cực...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Flash Photography, Flash metering (TTL , A-TTL, E-TTL, E-TTL II) Flash Photography, Flash metering (TTL , A-TTL, E-TTL, E-TTL II) Khi trang bị các accessories cho chiếc (D)SLR của mình, sau những gam ống kính thì ta thường nghĩ đến một chiếc đèn flash. Đây hẳn là một thiết bị không thể thiếu và nếu biết tận dụng nó thì sẽ phát huy nhiều lợi ích trong nhiếp ảnh. Bản thân tôi cũng ít khi chụp với flash, và khi bắt đầu sử dụng flash unit cũng rất lúng túng và hầu như đặt ở chế độ Auto (hoặc P). Vì vậy, kinh nghiệm sử dụng flash của tôi không nhiều, đồng thời việc sử dụng flash cũng cực kỳ đa dạng và linh hoạt, tùy hoàn cảnh và sự sáng tạo của người chụp. Trong topic này, tôi chỉ muốn trao đổi với các bạn những điều cơ bản liên quan đến flash photography. Còn những tình huống cụ thể thì chúng ta đã có các topic, nơi bình luận, mổ xẻ cho từng bức ảnh. Riêng phần về flash được viết rất chi tiết, tổng cộng trong 3 parts. Nhưng tôi chỉ tham khảo một số nội dung cơ bản nhất. Các bạn có thể xem thêm và cùng trao đổi. 1. Flash Guide Number Năng lực làm việc của một flash unit được đánh giá qua chỉ số Guide Number (GN). Thông số này cho biết cự ly xa nhất (hay tầm hoạt động) của một đèn flash là bao nhiêu met (hoặc feet), ứng với một giá trị khẩu độ và ISO cho trước. Thông thường, ISO được chọn tham chiếu là ISO 100. Ví dụ: Flash 550EX có GN là 55 (met). Tại ISO 100, ta có thể xác định khoảng cách lớn nhất mà đèn này có thể bao phủ ứng với từng khẩu độ ống kính theo công thức: distance = GN / f-stop (or) f-stop = GN / distance Nếu tính toán với film có độ nhạy là ISO 200, thì GN của flash tương ứng tăng thêm 1.4 lần, tức 55x1.4 (met) Lưu ý rằng distance ở đây không phải là khoảng cách từ camera tới subject mà là khoảng cách từ flash tới subject. Hãy hình dung, nếu flash gắn ở vị trí thông thường trên camera thì hai khoảng cách này có thể coi là như nhau. Tuy nhiên, nếu flash đặt ở một vị trí khác (liên kết với camera qua cable hoặc thiết bị không dây), hay gắn trên camera mà bouceleen trần nhà hoặc tường thì khoảng cách này sẽ được tính theo dọc đường đi của ánh sáng flash. Tôi không có ý định đi sâu hơn vào điểm này bởi hiện nay chúng ta đều sử dụng các máy có kỹ thuật đo sáng cho flash (flash mettering) tự động. Vì thế, không phải lúc nào flash cũng phải làm việc với công suất lớn nhất. Công thức trên chỉ áp dụng khi ta dùng flash ở chế độ manual để tính toán độ mở hay cự ly chụp thích hợp. Nhưng đã đầu tư một số tiền lớn cho body và flash thì nên tận dụng những kỹ thuật đo sáng flash sẵn có. Việc sử dụng ở chế độ manual là rất hãn hữu. Vì vậy, nếu không muốn, ta cũng có thể quên cái công thức kia đi, và chỉ cần nhớ giá trị GN như một thông số tham khảo khi đi chọn mua flash. Flash có GN càng lớn thì càng khỏe và càng mắc tiền hơn. 2. Flash photography Việc chụp ảnh với flash tuy cũng chỉ diễn ra trong chớp mắt, nhưng thực tế là quá trình diễn ra phức tạp hơn vì cùng một lúc, camera phải làm việc với 2 nguồn sáng khác nhau: Nguồn sáng môi trường (ambiance) và nguồn sáng của flash. Sự khác nhau là ở chỗ ambiance light là nguồn sáng liên tục, còn flash light là nguồn sáng tức thời. Tính chất liên tục và tức thời ở đây là so với thời gian phơi sáng của bức ảnh. Do đó, quá trình đo sáng, phơi sáng cũng sẽ khác với khi chụp không có flash. Điều này thể hiện rõ hơn khi ta xem xét trường hợp chụp flash ở tốc độ dưới X-sync. Khi chụp ảnh không dùng flash, ta có thể thay đổi sự phơi sáng của bức ảnh bằng việc thay đổi một trong ba yếu tố tốc độ chụp, khẩu độ, ISO khi giữ nguyên hai yếu tố còn lại. Khi chụp với flash, nhiệm vụ của flash chủ yếu là soi sáng tiền cảnh và do thời gian phát xung của flash cực ngắn nên việc thay đổi tốc độ chụp sẽ không làm thay đổi sự phơi sáng của tiền cảnh mà chỉ làm thay đổi sự phơi sáng của hậu cảnh, hay những nơi không bị ảnh hưởng của flash. Nói cách khác, tốc độ chụp không chịu sự tác động của nguồn sáng tức thời mà chỉ có tác dụng đối với nguồn sáng liên tục mà thôi. Thực vậy, khi chụp một người ngoài trời tối, phải dùng flash để đánh sáng. Nếu thấy chủ thể quá sáng (do đo sáng flash sai, hoặc dùng flash manual) mà bạn tăng tốc độ chụp lên cao hơn thì cũng không cải thiệt được tình hình. Chủ thể vẫn bị quá sáng cho dù background có tối hơn. Cách giải quyết là giảm ISO, khép sâu khẩu độ hoặc lùi ra xa chủ thể hơn (giả định công suất flash không đổi). Nếu thấy vẫn còn tối thì dù bạn có giảm tốc độ chụp đi thì chủ thể cũng chỉ sáng hơn 1 chút nhưng đó là do không có tác dụng của flash và được phơi sáng lâu hơn. Nhưng nếu đủ sáng thì có thể ảnh bị rung nhòe. Trong tình huống này, có nghĩa là flash của bạn đã phát hết công suất mà vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu. Cách khắc phục là mở ống kính lớn hơn, tăng ISO, hoặc tiến lại gần chủ ...

Tài liệu được xem nhiều: