G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_4
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 136.37 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thuyết duy tâm này ở trong sự mâu thuẫn như vậy là vì nó khẳng định Khái niệm trừu tượng về Lý tính như là cái đúng thật (das Wahre).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_4 G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH § 239 Thuyết duy tâm này ở trong sự mâu thuẫn như vậy là vì nó khẳng định Khái niệm trừu tượng về Lý tính như là cái đúng thật (das Wahre). | Do đó, thực tại nảy sinh ra một cách trực tiếp đối với nó trong hình thức đúng ra không phải là thực tại của Lý tính, trong khi Lý tính thì lúc nào cũng được giả định [hay “phải”] là tất cả thực tại(423). | Cho nên, [trong tình hình đó], Lý tính vẫn mãi là một sự tìm kiếm không ngừng nghỉ, nhưng trong chính tiến trình tìm kiếm, Lý tính [đành phải] tuyên bố rằng nó rút cục hoàn toàn không thể nào đạt đến được sự thỏa mãn của việc “tìm ra”. Thế nhưng, Lý tính hiện thực [cụ thể] thì không có tính thiếu triệt để như vậy, trái lại, nếu thoạt đầu nó chỉ là sự xác tín đơn thuần rằng mình là tất cả thực tại, thì ngay trong Khái niệm này, Lý tính ý thức rằng mình chưa phải là thực tại trong tính chân lý đúng thật với tư cách là sự xác tín và với tư cách là cái Tôi, nên Lý tính bị thôi thúc phải nâng sự xác tín của mình lên thành chân lý và phải lấp đầy [một cách cụ thể hiện thực] cái “của tôi” [còn] trống rỗng này. (còn tiếp) Nguồn: Georg Wilhelm Friedrich Hegel. 2006. Hiện tượng học tinh thần (Phänomenologie des Geistes). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà Nội: Nxb. Văn học. Bản điện tử của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn. Bản đăng trên triethoc.edu.vn có sự cho phép của dịch giả. (399)Trong đoạn văn rất trừu tượng này, Hegel tóm tắt tiến trình đào luyện của “ý thức-bất hạnh”: nó đã từ khước cái tồn tại-cho mình của nó, và khi tự phủ định chính mình như thế, nó đã trở nên đồng nhất với “cái phổ biến” vốn đã ở “phía bên kia”, “ở bên ngoài” nó. Nó đã tự biến mình thành một “sự kiện”, một “sự vật”. (400)Như đã thấy ở đoạn trước, cái hạn từ trung giới ở đây được ám chỉ như là người giáo sĩ, là Giáo hội Ki-tô giáo (thời Trung cổ). (401)Cái trung giới (giáo sĩ, Giáo hội) – là hình thái tiền thân của Lý tính (sự đồng nhất giữa Tư duy và Tồn tại) – bây giờ tự thể hiện như là Lý tính ý thức về chính mình. (402)Ở đây, “thuyết duy tâm” là một “hiện tượng” của “lịch sử Tinh thần” (xem: lý giải rất sâu của Nicolai Hartmann: “Die Philosophie des deutschen Idealismus”/“Triết học của thuyết duy tâm Đức”, phần II, Hegel, 1929, tr. 112 và tiếp; Chú giải dẫn nhập: 7.2). (403)Tự-ý thức không còn tìm cách tự cứu mình trước thế giới mà tự tìm thấy chính mình ở trong thế giới. Trong “Các bài giảng về lịch sử triết học”, sự “hoà giải này giữa Tự-ý thức và sự Hiện tiền (Gegenwart)” được Hegel xem là đặc điểm của thời kỳ Phục hưng tiếp sau thời Trung cổ. Biểu hiện triết học của sự thống nhất “vẫn chưa được ý thức” này sẽ là các hệ thống duy tâm của Kant và Fichte (theo J.H). (404)Chính “tính trực tiếp” này làm cho sự xác tín (chủ quan) (ở cấp độ này chưa phải là “sự thật”) và thuyết duy tâm (chưa được “lấp đầy bằng nội dung”) chỉ là sự xác tín (chủ quan) và là thuyết duy tâm “hình thức”. (405)Ám chỉ thuyết duy tâm của Fichte gán “toàn thể tuyệt đối của thực tại” (absolute Totalität der Realität) cho “cái Tôi”. (Xem: Fichte: “Cơ sở Học thuyết Khoa học” (Grundlage), các trang 8, 14, 65, 57 và tiếp). (406)“Tự-ý thức tự do”: Tự-ý thức của thuyết khắc kỷ (§§197-198). (407)“Thuyết duy tâm” là kết quả của một “chặng đường dài của sự đào luyện” mà khởi nguyên của nó được kiến lập bằng các tiền-giả định đối lập nhau. (408)Câu khá tối nhưng rất quan trọng để hiểu sự quá độ của ý thức thành “lý tính”: lý tính là sự thống nhất biện chứng của Ý thức (loại trừ cái “tự-mình” của cái khác) và Tự-ý thức (loại trừ cái “cho-mình” của cái khác). Cái gì tồn tại tự-mình thì cũng tồn tại cho ý thức; và cái gì tồn tại cho ý thức thì cũng là tự-mình. Chữ “[tiêu biến đi] cho bản thân ý thức” (für es selbst verschwindet) ở câu trước có nghĩa: không chỉ “cho ta” (für uns) tức không chỉ cho nhà quan sát hiện tượng học. Thoạt đầu, đối với ý thức, đối tượng có giá trị như cái đúng thật (“cái tồn tại-tự mình”), và ý thức phân biệt những cách thức quan hệ với đối tượng như những gì đối tượng tồn tại cho-ý thức (für es). Rồi kinh nghiệm từng bước phản tư để nhận ra rằng ngay cái “Tự-mình” này cũng chỉ tồn tại – như nó đang tồn tại – là ở trong mối quan hệ nhất định với ý thức, tức: nó là tự mình chỉ khi là “cho-ý thức”. Bây giờ, khi khẳng định rằng cả hai: “tự-mình” và “cho-ý thức” “quy giảm thành Một sự thật duy nhất, đó là: cái gì tồn tại hay là cái Tự-mình chỉ tồn tại là trong chừng mực nó tồn tại cho ý thức, và cái gì tồn tại cho ý thức thì cũng tồn tại tự-mình”…, bản thân ý thức đã, về nguyên tắc, nắm bắt được cấu trúc nền tảng và phổ biến của mình như là điều kiện khả thể cho mọi tính chân lý, tức, ý thức xuất hiện với tư cách là “Lý tính” và hiện thân cho nguyên tắc (“khái niệm”) ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_4 G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH § 239 Thuyết duy tâm này ở trong sự mâu thuẫn như vậy là vì nó khẳng định Khái niệm trừu tượng về Lý tính như là cái đúng thật (das Wahre). | Do đó, thực tại nảy sinh ra một cách trực tiếp đối với nó trong hình thức đúng ra không phải là thực tại của Lý tính, trong khi Lý tính thì lúc nào cũng được giả định [hay “phải”] là tất cả thực tại(423). | Cho nên, [trong tình hình đó], Lý tính vẫn mãi là một sự tìm kiếm không ngừng nghỉ, nhưng trong chính tiến trình tìm kiếm, Lý tính [đành phải] tuyên bố rằng nó rút cục hoàn toàn không thể nào đạt đến được sự thỏa mãn của việc “tìm ra”. Thế nhưng, Lý tính hiện thực [cụ thể] thì không có tính thiếu triệt để như vậy, trái lại, nếu thoạt đầu nó chỉ là sự xác tín đơn thuần rằng mình là tất cả thực tại, thì ngay trong Khái niệm này, Lý tính ý thức rằng mình chưa phải là thực tại trong tính chân lý đúng thật với tư cách là sự xác tín và với tư cách là cái Tôi, nên Lý tính bị thôi thúc phải nâng sự xác tín của mình lên thành chân lý và phải lấp đầy [một cách cụ thể hiện thực] cái “của tôi” [còn] trống rỗng này. (còn tiếp) Nguồn: Georg Wilhelm Friedrich Hegel. 2006. Hiện tượng học tinh thần (Phänomenologie des Geistes). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà Nội: Nxb. Văn học. Bản điện tử của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn. Bản đăng trên triethoc.edu.vn có sự cho phép của dịch giả. (399)Trong đoạn văn rất trừu tượng này, Hegel tóm tắt tiến trình đào luyện của “ý thức-bất hạnh”: nó đã từ khước cái tồn tại-cho mình của nó, và khi tự phủ định chính mình như thế, nó đã trở nên đồng nhất với “cái phổ biến” vốn đã ở “phía bên kia”, “ở bên ngoài” nó. Nó đã tự biến mình thành một “sự kiện”, một “sự vật”. (400)Như đã thấy ở đoạn trước, cái hạn từ trung giới ở đây được ám chỉ như là người giáo sĩ, là Giáo hội Ki-tô giáo (thời Trung cổ). (401)Cái trung giới (giáo sĩ, Giáo hội) – là hình thái tiền thân của Lý tính (sự đồng nhất giữa Tư duy và Tồn tại) – bây giờ tự thể hiện như là Lý tính ý thức về chính mình. (402)Ở đây, “thuyết duy tâm” là một “hiện tượng” của “lịch sử Tinh thần” (xem: lý giải rất sâu của Nicolai Hartmann: “Die Philosophie des deutschen Idealismus”/“Triết học của thuyết duy tâm Đức”, phần II, Hegel, 1929, tr. 112 và tiếp; Chú giải dẫn nhập: 7.2). (403)Tự-ý thức không còn tìm cách tự cứu mình trước thế giới mà tự tìm thấy chính mình ở trong thế giới. Trong “Các bài giảng về lịch sử triết học”, sự “hoà giải này giữa Tự-ý thức và sự Hiện tiền (Gegenwart)” được Hegel xem là đặc điểm của thời kỳ Phục hưng tiếp sau thời Trung cổ. Biểu hiện triết học của sự thống nhất “vẫn chưa được ý thức” này sẽ là các hệ thống duy tâm của Kant và Fichte (theo J.H). (404)Chính “tính trực tiếp” này làm cho sự xác tín (chủ quan) (ở cấp độ này chưa phải là “sự thật”) và thuyết duy tâm (chưa được “lấp đầy bằng nội dung”) chỉ là sự xác tín (chủ quan) và là thuyết duy tâm “hình thức”. (405)Ám chỉ thuyết duy tâm của Fichte gán “toàn thể tuyệt đối của thực tại” (absolute Totalität der Realität) cho “cái Tôi”. (Xem: Fichte: “Cơ sở Học thuyết Khoa học” (Grundlage), các trang 8, 14, 65, 57 và tiếp). (406)“Tự-ý thức tự do”: Tự-ý thức của thuyết khắc kỷ (§§197-198). (407)“Thuyết duy tâm” là kết quả của một “chặng đường dài của sự đào luyện” mà khởi nguyên của nó được kiến lập bằng các tiền-giả định đối lập nhau. (408)Câu khá tối nhưng rất quan trọng để hiểu sự quá độ của ý thức thành “lý tính”: lý tính là sự thống nhất biện chứng của Ý thức (loại trừ cái “tự-mình” của cái khác) và Tự-ý thức (loại trừ cái “cho-mình” của cái khác). Cái gì tồn tại tự-mình thì cũng tồn tại cho ý thức; và cái gì tồn tại cho ý thức thì cũng là tự-mình. Chữ “[tiêu biến đi] cho bản thân ý thức” (für es selbst verschwindet) ở câu trước có nghĩa: không chỉ “cho ta” (für uns) tức không chỉ cho nhà quan sát hiện tượng học. Thoạt đầu, đối với ý thức, đối tượng có giá trị như cái đúng thật (“cái tồn tại-tự mình”), và ý thức phân biệt những cách thức quan hệ với đối tượng như những gì đối tượng tồn tại cho-ý thức (für es). Rồi kinh nghiệm từng bước phản tư để nhận ra rằng ngay cái “Tự-mình” này cũng chỉ tồn tại – như nó đang tồn tại – là ở trong mối quan hệ nhất định với ý thức, tức: nó là tự mình chỉ khi là “cho-ý thức”. Bây giờ, khi khẳng định rằng cả hai: “tự-mình” và “cho-ý thức” “quy giảm thành Một sự thật duy nhất, đó là: cái gì tồn tại hay là cái Tự-mình chỉ tồn tại là trong chừng mực nó tồn tại cho ý thức, và cái gì tồn tại cho ý thức thì cũng tồn tại tự-mình”…, bản thân ý thức đã, về nguyên tắc, nắm bắt được cấu trúc nền tảng và phổ biến của mình như là điều kiện khả thể cho mọi tính chân lý, tức, ý thức xuất hiện với tư cách là “Lý tính” và hiện thân cho nguyên tắc (“khái niệm”) ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tiểu luận triết học trường phái triết học vấn đề cơ bản triết học chủ nghĩa hegel Chủ nghĩa duy tâm triết học HegelGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 340 2 0
-
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 265 1 0 -
21 trang 261 0 0
-
30 trang 223 0 0
-
Tiểu luận Triết học: Học thuyết Âm Dương và Văn hóa Trọng Âm của người Việt
26 trang 218 0 0 -
20 trang 214 0 0
-
Tiểu luận kinh tế chính trị: Quy luật giá trị cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
16 trang 186 0 0 -
Học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng to lớn nhất trong học thuyết kinh tế của C. Mác
7 trang 181 0 0 -
19 trang 167 0 0
-
23 trang 162 0 0