Danh mục

Gà trong y dược học

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 96.62 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gà có mặt trong rất nhiều bài thuốc Đông y. Còn y học hiện đại lại sử dụng phôi gà để điều chế văcxin. Đối với Đông y, rất nhiều bộ phận của gà đã được dùng làm thuốc. Thí dụ: Kê phân bạch là chất trắng trong phân con gà, kê quan huyết là máu gà, kê nội kim là màng trong màu vàng của mề gà, ô kê cốt là xương gà ác, kê can là gan gà, kê tử là trứng gà, thậm chí ngay cả lông gà cũng được dùng làm thuốc. Không chỉ gà nhà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gà trong y dược học Gà trong y dược học Gà có mặt trong rất nhiều bài thuốc Đông y. Còn y học hiện đại lại sử dụng phôi gà để điều chế văcxin.Đối với Đông y, rất nhiều bộ phận của gà đãđược dùng làm thuốc. Thí dụ: Kê phân bạchlà chất trắng trong phân con gà, kê quanhuyết là máu gà, kê nội kim là màng trongmàu vàng của mề gà, ô kê cốt là xương gàác, kê can là gan gà, kê tử là trứng gà, thậmchí ngay cả lông gà cũng được dùng làmthuốc. Không chỉ gà nhà mà một số con vậtkhác nằm trong bộ gà như công, đa đa, cútcũng được Đông y dùng chữa bệnh.Tây y tuy không sử dụng bộ phận nào của gàđể ly trích hoạt chất dùng làm thuốc, nhưnglại dùng gà để làm phương tiện nghiên cứuvà lấy phôi gà làm môi trường cấy virus vàđiều chế vaccin.Nhà khoa học Batesson đã chọn gà làm vậtthí nghiệm về di truyền học và nhờ vậy màmở rộng được các quy luật di truyền sanggiới động vật (trước đó Mendel chỉ nghiêncứu trên đậu Hà Lan). Cùng với các loàithực vật, ruồi dấm, chuột nhắt, chuột lang...,gà đã góp phần thúc đẩy ngành di truyền họcphát triển, đạt những tiến bộ vượt bậc nhưngày nay.Nhờ nghiên cứu bệnh của gà, nhà bác họcMỹ F.D. Rous đã trở nên nổi tiếng. Từ năm1911, ông phát hiện một loại khối u trên gàvà xác định bệnh có nguồn gốc virus quaviệc chứng minh tính siêu lọc của mầmbệnh. Ông cho dịch chế từ khối u của g à điqua màng lọc vi khuẩn, nếu mầm bệnh là vikhuẩn thì chắc chắn nó sẽ được giữ lại trênmàng lọc. Kết quả là Rous không tìm đượcvi khuẩn nào trên màng lọc nhưng nó vẫn cókhả năng truyền bệnh trong 25 năm khiđược giữ ở 40 độ C. Điều này chứng tỏ mầmbệnh phải là virus. Mãi đến năm 1966, Rousmới được trao giải Nobel y học cho nghiêncứu này vì chỉ lúc đó, người ta mới thấyđược tầm quan trọng của công trình. Đó làbước khởi đầu của việc nghiên cứu thựcnghiệm các khối u do virus, góp phần choviệc nghiên cứu các bệnh ung thư sau này.Virus chỉ có thể sống ký sinh trong tế bàosống của ký chủ. Vì vậy, từ khi phát hiệnvirus tới nay, phôi gà trong trứng gà lộn đãđược dùng làm môi trường để nuôi cấyvirus. Nhiều loại văcxin chống virus đãđược sản xuất trong môi trường phôi gà.Chẳng hạn, văcxin chống bệnh cúm gà, sốtvàng, sởi, quai bị đã được sản xuất bằngcách cấy virus trên phôi gà, sau đó tách virusra khỏi tế bào, làm tinh khiết và cô đặc.Từ giữa thế kỷ 18, người ta đã phát hiện tácdụng của hoóc môn sinh dục đực từ nhữngthí nghiệm trên gà. Các nhà nghiên cứu nhậnthấy, nếu cắt bỏ tinh hoàn của gà trống thìmào gà sẽ héo hon, gà không còn ham muốnđạp mái nữa. Nhưng nếu ghép một mảnhtinh hoàn mới cho gà thì mào gà tươi thắmtrở lại và gà sẽ “hồi xuân”. Chính nhờ thínghiệm này mà đến khoảng cuối thế kỷ 18,người ta đã mạnh dạn cho một cụ già suykiệt về tình dục dùng thử một loại thuốc làmtừ tinh chất của tinh hoàn. Kết quả cụ đã tìmlại được phần nào sức mạnh tình dục thờithanh niên tưởng đã vĩnh viễn mất đi.Như vậy, ngoài việc cung cấp thịt, trứng chocon người, gà còn có những đóng góp khôngnhỏ trong lĩnh vực nghiên cứu y dược.

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: