Thông tin tài liệu:
Biến chứng của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu? Biến chứng của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bao gồm xơ gan (cũng chính là giai đoạn cuối của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu) và ung thư gan nguyên phát (ung thư tế bào gan).Tỷ lệ xơ gan ở bệnh nhân bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu vẫn chưa được xác định và rất thay đổi, có lẽ từ 8 đến 15%. Cho tới tận hôm nay, có rất ít nghiên cứu theo dõi bệnh nhân đủ thời gian để nghiên cứu quá trình...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gan nhiễm mỡ (Phần 3) Gan nhiễm mỡ (Phần 3) Biến chứng của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu? Biến chứng của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bao gồm xơ gan (cũngchính là giai đoạn cuối của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu) và ung thư gan nguyênphát (ung thư tế bào gan). Tỷ lệ xơ gan ở bệnh nhân bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu vẫn chưa đượcxác định và rất thay đổi, có lẽ từ 8 đến 15%. Cho tới tận hôm nay, có rất ít nghiên cứutheo dõi bệnh nhân đủ thời gian để nghiên cứu quá trình tiến triển từ viêm gan nhiễmmỡ không do rượu tới xơ gan. Tuy nhiên có một bằng chứng gián tiếp cho thấy viêmgan nhiễm mỡ không do rượu tiến triển đến xơ gan ví dụ như trong một số bệnh nhânngay khi được chẩn đoán viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bằng sinh thiết gan thì xơgan cũng đã xuất hiện cùng với các dấu hiệu thông thường của viêm gan nhiễm mỡkhông do rượu. Trái lại, điều quan trọng cần phải nhớ rằng, đa số các trường hợp có xơ gan thìthâm nhiễm mỡ biến mất cùng với quá trình viêm. Xơ gan trong viêm gan nhiễm mỡkhông do rượu với sự biến mất của hiện tượng thâm nhiễm mỡ và hiện tượng viêmđược gọi là xơ gan bùng phát. Ðiều này có thể do ít có mỡ vào trong gan qua tĩnhmạch cửa (mạch máu mang máu từ ruột và gan). Ngoài ra, sự giảm bài tiết insulin(cùng với sự tiến triển của bệnh tiểu đường tuýp II phụ thuộc insulin) làm chotriglyceride rời khỏi gan. Hơn nữa, có nhiều báo cáo cho rằng có ít nhất 50% trường hợp xơ gan (xơ ganvô căn xảy ra do béo phì hoặc tiểu đường tuýp II có trước). Những quan sát này chorằng kháng insulin, cũng là viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, thường là yếu tố cơbản của xơ gan vô căn. Thực ra thì số trường hợp ghép gan vì xơ gan được nghĩ doviêm gan nhiễm mỡ không do rượu đang trên đà gia tăng. Một tỷ lệ cao bệnh nhân bịxơ gan vô căn đã được ghép gan lại phát triển bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượutái phát ở gan mới ghép càng xác định thêm vai trò nguyên nhân của viêm gan nhiễmmỡ không do rượu. Cuối cùng, một nghiên cứu tại Pháp cho rằng bệnh nhân bị viêmgan nhiễm mỡ không do rượu có nguy cơ bị xơ gan giống như viêm gan siêu vi C. Tuynhiên, như đã đề cập ở trên, quá trình tiến triển thành xơ gan ở bệnh nhân viêm gannhiễm mỡ không do rượu được cho là chậm và chẩn đoán xơ gan thường xuất hiện khibệnh nhân 60 tuổi. Cũng có một số báo cáo về ung thư gan nguyên phát xảy ra ở bệnh nhân bị xơgan có liên quan với viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Thực ra tỷ lệ ung thư gan ởbệnh nhân xơ gan do viêm gan nhiễm mỡ không do rượu tương tự như ở bệnh nhân bịbệnh xơ gan do viêm gan siêu vi C (khoảng 1-2% mỗi năm). Quá trình gây ra ung thưgan ở bệnh nhân xơ gan do viêm gan nhiễm mỡ không do rượu chưa được biết và cũngchưa được nghiên cứu. Ung thư gan có lẽ là do hậu quả của việc tái tạo gan (tái sinhsản tế bào gan) mà không có yếu tố đặc biệt nào liên quan với viêm gan nhiễm mỡkhông do rượu. Tuy nhiên, theo một số tác giả cho rằng kháng insulin có thể thúc đầyhình thành ung thư gan. Làm thế nào để chẩn đoán bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gannhiễm mỡ không do rượu? Vì không có triệu chứng lâm sàng và hóa sinh nào đặc hiệu, nên viêm gannhiễm mỡ không do rượu vẫn phải được chẩn đoán bằng phương pháp loại trừ sau khiđã loại trừ hết các nguyên nhân gây gan nhiễm mỡ và gây tăng men gan khác. Triệu chứng hóa sinh (xét nghiệm máu) bất thường thường gặp nhất là sự giatăng men gan từ nhẹ đến trung bình (men ALTvà AST) men gan thường gia tăng tronghầu hết các bệnh viêm gan khác nhau (cần nhớ rằng viêm gan chính là viêm tế bàogan). Trong viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, mức gia tăng đó thường dao động từtháng này qua tháng khác và thường thì ALT tăng nhiều hơn AST. Ðiều này khác vớibệnh viêm gan do rượu trong đó AST tăng nhiều hơn ALT. Thực ra, dấu hiệu nàythường dẫn đến xem xét chẩn đoán bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gannhiễm mỡ không do rượu. Tuy nhiên thật không may là không có một xét nghiệm hóasinh hay hình ảnh nào có thể phân biệt gan nhiễm mỡ đơn thuần hay viêm gan nhiễmmỡ không do rượu. Hầu hết các xét nghiệm về gan (như bilirubin và phosphatase kiềm) ở bệnhnhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu thường bình thường. Tuy nhiên Gamma-glutamyl-transpeptidase (GGTP) thường tăng trung bình. Ferritin huyết (một loạiprotein liên quan dến dự trữ sắt và quá trình viêm) có thể gia tăng đáng kể nhưngtransferrin bão hòa thì bình thường. Việc nghiên cứu chất sắt này cho thấy chỉ hiệndiện một số lượng nhỏ sắt trong gan (quá tải sắt). Xét nghiệm hóa sinh bất thường liên quan đến kháng insulin bao gồm tăngcholesterol toàn phần, lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL, còn gọi là cholesterol xấu haycó hại), triglyceride và đường trong máu và giảm lipoprotein tỷ trong cao (HDL, còngọi là cholesterol tốt hay có lợi). Việc chẩn đoán bệnh gan nhiễm m ...