Danh mục

Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 195.02 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồngNguyễn Văn Tuấn Hôm nay là ngày 20/10, Ngày Phụ nữ (Women’s Day), và cũng là ngày Loãng xương quốc tế. Chúng tôi muốn nhân dịp ngày này để nhắc một bệnh phổ biến ở giới nữ: loãng xương. Ít ai biết rằng gãy xương, một hệ quả của loãng xương, làm giảm tuổi thọ ở cả nữ và nam. Bài viết này bàn qua một số tiến bộ mới trong lĩnh vực loãng xương. Ở người cao tuổi, gãy xương do chấn thương nhẹ như trượt chân bị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng Nguyễn Văn TuấnHôm nay là ngày 20/10, Ngày Phụ nữ (Women’s Day), và cũng là ngày Loãngxương quốc tế. Chúng tôi muốn nhân dịp ngày này để nhắc một bệnh phổ biến ởgiới nữ: loãng xương. Ít ai biết rằng gãy xương, một hệ quả của loãng xương, làmgiảm tuổi thọ ở cả nữ và nam. Bài viết này bàn qua một số tiến bộ mới trong lĩnhvực loãng xương. Ở người cao tuổi, gãy xương do chấn thương nhẹ như trượt chân bị té ngãtrong khi đi bộ thường là một hệ quả của loãng xương. Loãng xương xảy ra khimật độ chất khoáng trong xương bị suy giảm và cấu trúc của xương bị tổn hại.Những thay đổi này xảy ra ở mức độ vi mô, không phát sinh triệu chứng, cho đếnkhi xương bị gãy. Tình trạng này cũng tương tự như một cấu trúc bị mục dần chođến khi cấu trúc bị sụp. Vì thế, loãng xương thường được ví von là một “căn bệnhâm thầm”. Chính vì đặc điểm âm thầm này mà loãng xương là một trong nhữngbệnh làm cho người cao tuổi rất quan tâm. Tuy xương nào cũng có thể bị gãy, nhưng những xương thường bị gãy là cổxương đùi, xương chậu, xương cột sống, xương tay, và xương sườn. Theo nghiêncứu của chúng tôi ở người da trắng, cứ 2 phụ nữ ở độ tuổi 50 thì có 1 người sẽ bịgãy xương trong quãng đời còn lại. Ở Việt Nam chúng ta chưa có những dữ liệunày, nhưng nguy cơ ở người Á châu nói chung thấp hơn khoảng 30% so với ngườida trắng. Nguy cơ gãy xương tăng dần với độ tuổi theo cấp số nhân, và thường xảy raở người cao tuổi (trên 60) hay phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Hiện nay, nước ta cókhoảng 8% người trên độ tuổi 60, và con số này sẽ tăng lên 12% vào năm 2030.Điều này có nghĩa là số ca gãy xương trong cộng đồng sẽ gia tăng nhanh, và làmột gánh nặng cho nền y tế nước ta. Ở Việt Nam, chúng tôi ước tính rằng mỗinăm có khoảng 102.000 nữ và 67.000 nam bị gãy xương; trong số này, số ca gãycổ xương đùi là 19.000 nữ và 7.000 nam. Gãy xương làm giảm tuổi thọ cho bệnh nhân. Đã có khá nhiều nghiên cứutrong thời gian gần đây cho thấy những bệnh nhân bị gãy xương cột sống có nguycơ tử vong tăng gấp 2 lần so với tỉ lệ tử vong trung b ình trong dân số. Tuy nhiên,gãy cổ xương đùi là một hệ quả nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất của loãngxương. Nhiều nghiên cứu trên thế giới, kể cả ở Á châu, gần đây cho thấy khoảng20% nữ và 30% nam bị gãy cổ xương đùi chết trong vòng 1 năm sau khi xương bịgãy. Trong số này, khoảng 5% nữ và 10% nam tử vong trong khi nằm điều trị ởbệnh viện. Bệnh nhân may mắn sống sót sau biến cố gãy cổ xương đùi thi bị hạn chếđi lại, và bị nhiều biến chứng khác. Không chỉ bị hạn chế đi lại, những bệnh nhânđã bị gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, thường hay bị gãy xương một lần nữa.Chính vì thế và các biến chứng đi theo gãy xương, nên chất lượng cuộc sống cácbệnh nhân này bị suy giảm nghiêm trọng, có nhiều trường hợp bị trầm cảm. Thời gian tử vong ở bệnh nhân gãy cổ xương đùi hàm ý rằng thời gian lítưởng để điều trị cho bệnh nhân gãy cổ xương đùi là năm đầu tiên, hay tốt nhất làngay sau khi gãy xương. Cố nhiên, các bệnh gãy cổ xương đùi đều được điều trịbằng phẫu thuật trong bệnh viện, như thay thế khớp hay kết hợp xương, nhưngviệc điều trị theo sau phẫu thuật cũng đóng vai trò quan trọng. Nhưng một xu hướng đáng báo động hiện nay là phần lớn bệnh nhân gãyxương không được điều trị. Thật vậy, một thực tế đáng buồn là khoảng 70%bệnh nhân bị gãy xương không hề được điều trị sau khi phẫu thuật. Ngay cảphần lớn bệnh nhân gãy cổ xương đùi sau khi được phẫu thuật cũng không đượctheo dõi và điều trị ! Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đ ã cho rađời hàng loạt thuốc có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương. Những thuốc này có thểchia làm 2 nhóm chính: nhóm ức chế tế bào hủy xương và nhóm kích thích tế bàotạo xương. Trong nhóm đầu gồm có bisphosphonates (như alendronate,risedronate, zoledronate), SERM (raloxfene), calcitonin, v.v… Trong nhóm kíchthích tế bào tạo xương gồm có thuốc strontium ranelate và teriparatide. Tất cả cácthuốc này đều đã được thử nghiệm nhiều và có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xươngkhoảng 30% đến 50%. Tuy nhiên, trong nhóm nay, chỉ có zoledronate đượcchứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãyxương. Một công trình nghiên cứu trên 7000 bệnh nhân loãng xương cho thấyzoledronate giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 41%, nhưng giảm nguy cơ gãy xươngcột sống đến 70%. Tuy nhiên điều đáng chú ý là zoledronate còn giảm nguy cơ tửvong 28%. Nhưng câu hỏi đặt ra là: nếu điều trị bệnh nhân gãy cổ xương đùi ngay saukhi phẫu thuật thì hiệu quả sẽ ra sao? Một nghiên cứu trên 2100 bệnh nhân trên 75tuổi đã có câu trả lời cho câu hỏu đó. Trong nghiên cứu này, 1065 bệnh nhân bịgãy cổ xương đùi được tiêm zoledronate trong vòng 90 ngày sau khi phẫu thuật,và một nhóm 1062 bệnh nhân bị gãy ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: