Thông tin tài liệu:
Đối với nhiều doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu ngày nay đồng nghĩa với việc tạo dựng và quản lý giá trị của thương hiệu. Giá trị của một doanh nghiệp bao gồm hai phần, phần giá trị hữu hình và phần giá trị vô hình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giá trị thương hiệu: Trông người mong ta
Giá trị thương hiệu: Trông người mong ta
Chỉ có 9 thương hiệu của châu Á tham gia vào danh sách top 100
thương hiệu hàng đầu thế giới năm 2008, nhưng nhiều chuyên gia dự
đoán sẽ có sự trỗi dậy của các thương hiệu châu Á trong thế kỷ
này...'. Đối với nhiều doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu ngày nay
đồng nghĩa với việc tạo dựng và quản lý giá trị của thương hiệu. Giá
trị của một doanh nghiệp bao gồm hai phần, phần giá trị hữu hình và
phần giá trị vô hình. Phần giá trị hữu hình được tạo nên bởi các tài
sản hữu hình như văn phòng nhà xưởng, thiết bị máy móc và hàng
hóa. Phần giá trị vô hình được tạo nên bởi những tài sản vô hình bao
gồm tri thức, quy trình kinh doanh, vị thế thị trường và thương hiệu.
Đằng sau những thương hiệu hàng đầu thế giới
Danh sách những thương hiệu hàng đầu thế giới năm 2008 được tạp chí
Bussiness Week công bố cho thấy có sự gia tăng giá trị đáng kể của
những thương hiệu công nghệ như Google (tăng 43% so với năm 2007),
Apple (tăng 24%), Amazon (tăng 19%) và những thương hiệu hàng hiệu
như Zara (15%), Audi (11%) và Gucci (7%). Dẫn đầu danh sách vẫn là
Coca-Cola (giá trị 66,6 tỉ đô la), kế đến là IBM (hơn 59 tỉ) và Microsoft (59
tỉ). Trong số 100 thương hiệu hàng đầu, Mỹ là nước dẫn đầu với 52
thương hiệu, Đức có 9, Nhật với 7, Thụy Sỹ và Pháp mỗi nước có 5
thương hiệu. Một số thương hiệu châu Á trong top này vẫn là Toyota (hạng
6), Honda (hạng 20), Samsung (hạng 24), Sony (hạng 25) và Hyundai
(hạng 72). Trong lĩnh vực xe hơi, Toyota và Honda đã chứng tỏ khả năng
nhìn xa của mình bằng việc tiên phong ứng dụng công nghệ mới tiết kiệm
năng lượng (hybrid). Trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng, điều này
như một “cú hích” giúp lợi thế cạnh tranh của hai thương hiệu được củng
cố thêm trong khi các đại gia xe hơi của Mỹ đang lâm vào cảnh khốn đốn.
Bên cạnh sự gia tăng giá trị của các thương hiệu công nghệ và hàng xa xỉ
là sự sụt giảm giá trị hoặc biến mất khỏi danh sách của những thương hiệu
hoạt động trong lĩnh vực tài chính do ảnh hưởng của cơn bão tài chính
toàn cầu hiện nay. Điều này nói lên tính mong manh, dễ vỡ của những
“quả pha lê” thương hiệu. Chúng có thể được xây dựng cực nhọc trong
hàng chục năm trời nhưng có thể đổ vỡ nhanh chóng trong một thoáng.
Nguyên nhân thường do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài, tác động
từ hoạt động của đối thủ cạnh tranh và sai lầm trong quản trị thương hiệu
của chính doanh nghiệp. Tuy chỉ có 9 thương hiệu của châu Á tham gia
vào danh sách top 100 thương hiệu hàng đầu thế giới năm 2008, nhưng
nhiều chuyên gia dự đoán sẽ có sự trỗi dậy của các thương hiệu châu Á
trong thế kỷ này. Với nhiều biến động khó lường, dự báo cho thấy sẽ còn
có nhiều thay đổi đáng kể về giá trị và thứ hạng của các thương hiệu trong
danh sách này ở những năm tới. Dẫu sao thì những nhà lãnh đạo doanh
nghiệp luôn muốn biết điều gì ẩn chứa đằng sau những thương hiệu hàng
đầu.
Theo Rita Clifton, tác giả cuốn “Brands and Branding”, thì những điểm
chung đằng sau những thương hiệu hàng đầu bao gồm:
(1) Một ý tưởng xuất sắc có khả năng thu hút sự chú ý và tạo sự trung
thành nhờ đáp ứng được những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu dùng;
(2) Một mục tiêu cốt lõi nêu rõ lý do tồn tại của thương hiệu doanh nghiệp
và những giá trị hỗ trợ chứa đựng niềm tin vững chắc;
(3) Một cơ cấu tổ chức lấy thương hiệu làm trung tâm, mọi hành xử và
quyết định dựa trên câu hỏi nó sẽ ảnh hưởng gì đến thương hiệu của
doanh nghiệp;
(4) Nhất quán thực thi lời hứa thương hiệu trong dài hạn;
(5) Tạo ra sản phẩm và quy trình cung cấp giá trị vượt trội, thu hút và duy
trì sự trung thành của khách hàng;
(6) Định vị khác biệt để giành được sự ưu tiên chọn lựa và cung cấp trải
nghiệm thương hiệu độc đáo;
(7) Tạo được sự kết nối từ bên trong ra ngoài doanh nghiệp với vai trò đầu
tàu của CEO;
(8) Khả năng liên tục tạo ra giá trị phù hợp với nhóm khách hàng mục tiêu
mà vẫn duy trì được sự khác biệt trên thị trường.
“Made in China” và những bài học đắt giá
Ông Jonathan Chajat, CEO của Interbrand (Thượng Hải), nhận định rằng
tuy Trung Quốc đã có một số thương hiệu toàn cầu như TCL, Lenovo hay
Haier nhưng con đường phía trước của phần lớn thương hiệu nước này
vẫn còn nhiều trở ngại. Ngoài những vấn đề cơ bản như vốn đầu tư, kênh
phân phối và tham vọng toàn cầu, các thương hiệu Trung Quốc đang phải
đối mặt với vấn đề khác không kém phần quan trọng, đó là vấn đề về mặt
nhận thức. Trước tiên, đó là nhận thức về hàng “made in China” giá rẻ đi
kèm chất lượng kém, cộng thêm sự sụt giảm uy tín trầm trọng trong mắt
người tiêu dùng trên toàn cầu sau những vụ xì căng đan liên tục về chất
lượng, từ thức ăn gia súc, kem đánh răng, đồ chơi rồi đến sự kiện nóng về
melamine trong sữa. Sự kiện này như một đám mây đen che phủ ánh hào
quang chợt sáng trên bầu trời sau thành công của Olympics Bắc Kinh vừa
qua. Giới chuyên môn nhận định rằng hàng hóa Trung Quốc sẽ mất khá
nhiều thời gian và tiền bạc để thay đổi nhận thức không tích cực này và tạo
dựng lại uy tín trên thị trường toàn cầu. Vấn đề kế tiếp là những tên
thương hiệu của Trung Quốc thường khó đọc, thiếu sự nhận biết hoặc
thiếu sự liên tưởng tích cực khi tiếp cận người tiêu dùng toàn cầu. Đây
cũng là vấn đề gặp phải đối với nhiều thương hiệu của Việt Nam khi tiếp
cận với nước ngoài. Và có lẽ thách thức lớn hơn đối với bất kỳ thương
hiệu Trung Quốc nào hiện nay là làm thế nào để cung cấp những giá trị
phù hợp khác ngoài giá rẻ cho người tiêu dùng trên toàn cầu.
Thách thức nào đối với những thương hiệu Việt Nam?
Từ sự thành công ban đầu của các thương hiệu châu Á, ta thấy cơ hội ở
thị trường toàn cầu luôn dành cho những thương hiệu thấu hiểu được nhu
cầu và dám đột phá với một mô hình kinh doanh sáng tạo. Bên cạnh đó là
bài học kinh nghiệm từ những bước đi của các thương hiệu Trung Quốc.
Nhưng trước mắt các thương hiệu Việt Nam vẫn còn phải vượt qua một số
rào cản của chính mình trước khi có thể nghĩ đến một thương hiệu quốc tế
hay toàn cầu.
• Rào cản về nhận thức: thươ ...