Danh mục

Giải mã những lá thư thời chiến

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 175.41 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mỗi lá thư là một câu chuyện, một tâm sự của người lính trong chiến trường khói lửa gửi về cho gia đình, người thân... Mặc dù tất cả đều gắn với hai từ “bình thường” và “yên tâm” nhưng ẩn phía sau đó lại là những sự thật khác. Bí mật được tác giả - GS.TS Nguyễn Thúc Tùng giải mã. Khác hẳn với những gì đã xảy ra trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhiều lá thư mà người chiến sĩ gửi về cho gia đình, người thân ở hậu phương lại luôn thể hiện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải mã những lá thư thời chiến Giải mã những lá thư thời chiến Mỗi lá thư là một câu chuyện, một tâm sự của người lính trong chiến trường khói lửa gửi về cho gia đình, người thân... Mặc dù tất cả đều gắn với hai từ “bình thường” và “yên tâm” nhưng ẩn phía sau đó lại là những sự thật khác. Bí mật được tác giả - GS.TS Nguyễn Thúc Tùng giải mã. Khác hẳn với những gì đã xảy ra trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhiều lá thư mà người chiến sĩ gửi về cho gia đình, người thân ở hậu phương lại luôn thể hiện tinh thần lạc quan đến “khó tin” về cuộc sống bình yên với việc được ăn ngon, mặc ấm. Đôi khi những người lính còn ví “cuộc sống trong rừng như cuộc sống của tiên”. Những lá thư của GS.TS Nguyễn Thúc Tùng viết cho người vợ ở hậu phương là bà Tạ Thị Tuyết trong thời gian ông đi chiến trường B (12/1965-12/1967) cũng vậy. Lá thư năm 1966 viết “Anh ở rừng quen rồi, thích hợp dần nên người cũng khỏe lên, có lúc xung quanh chỗ ở, mây mù vào cả trong nhà, tưởng tượng cuộc sống như tiên ngày xưa… cao hổ cốt, cao gạc nai cũng tha hồ... Anh chỉ thèm một bát phở nóng Hà Nội”. Trong lá thư khác viết “Anh ở trong này vẫn khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ hơn cả ngoài Bắc, nếu có ai vào em gửi cho anh vài cái nhíp nhổ râu, một ít ớt bột, còn thức ăn hay thứ khác ở trong này anh không thiếu đâu”. Hầu hết các lá thư khác đều có đặc điểm chung là luôn nói về cuộc sống bình thường, ăn uống đầy đủ như: “Mấy hôm nay hội nghị, ăn luôn thịt bò, heo, nai, lợn rừng, cá, voi… và không khổ cực như lúc ở Liên Xô đâu, ở trong rừng thì mát mẻ không có ruồi muỗi”. Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi tại sao đi chiến trường lại còn sướng hơn đi học ở Liên Xô, ở trong rừng lại không có ruồi, muỗi… trong khi đó bệnh sốt rét hoành hành, đời lính nơi chiến trường gian khổ, cận kề cái chết, ăn uống thiếu thốn mà trong thư gửi cho gia đình những người lính lại viết như vậy? Phải chăng bức thư của đã được người khác “sửa lại”? Hay có thể những điều đó được “quy định” phải viết vậy để người nhà yên tâm? GS.TS Nguyễn Thúc Tùng cho biết trước khi lên đường, Tổng cục Chính trị đã căn dặn: “Các anh bắt đầu lên đường vào Nam và bước vào cuộc chiến rồi đấy. Mọi điều phải luôn giữ bí mật, không được viết hồi ký, nhất là viết thư về hậu phương thì không được nói về địa danh đang ở đâu, chiến đấu phục vụ nh ư thế nào, khám chữa bệnh cho thương bệnh binh, số lượng thương binh ở trận nào … và tên những cán bộ xung quanh mình. Ngoài ra về sinh hoạt cũng không viết những vấn đề để gia đ ình hoang mang như những khó khăn, thiếu thốn trong ăn, ở đi lại, ốm đau… Đặc biệt l à tình cảm không nói quá nhiều làm gia đình tủi thân, mặc dù là rất nhớ gia đình. Mục đích viết thư là nói những gì làm cho gia đình phấn khởi, yên tâm là điều tốt nhất”. Ngày ấy chiến tranh ác liệt, cuộc sống đói khổ, ăn rau rừng qua ngày để cứu chữa thương bệnh binh… Cái chết đến lúc nào không hay, nhưng là bí mật quân sự nên trong những lá thư của Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng gửi về hậu phương ông đều phải “nói dối” như vậy để cho người thân yên tâm. Nếu địch bắt được những lá thư đó, chúng không biết được tình hình sức khỏe, tình cảm của quân và dân, đặc biệt là thuốc men, lương thực. Chính vì vậy mỗi lần Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng cầm bút viết thư cho gia đình ông điều phải suy nghĩ nên viết cái gì để không gây lo lắng hay quá xúc động cho gia đình như “Anh ở trong này vẫn khỏe mạnh, ở đây đặc biệt là đi dự hội nghị là có tiêu chuẩn bồi dưỡng mổ lợn, bò, trâu ăn uống đầy đủ hơn cả ngoài Bắc nhưng nói chung chừng 50% bữa cơm là có thịt, như thế là khỏe rồi”. Thực chất, GS.TS Nguyễn Thúc Tùng cho biết một năm chỉ có một đến hai lần tổ chức hội nghị kéo dài từ hai đến bảy ngày. Bữa ăn nói chung là có thịt, Nhưng chỉ 10% (10 ngày mới có một bữa ăn cơm là có thịt). Các bữa hàng ngày là ăn cơm với mắm cá và rau rừng do chị nuôi xuống đồng bằng mua mắm cá của đồng bào (cá đồng bào ủ muối một thời gian thành mắm cá). GS. TS Nguyễn Thúc Tùng cũng nhắc lại kỷ niệm năm xưa: “Có một lần tôi gửi thư về gia đình và lỡ kể bắt được con cua đá trước nhà, anh em đem nấu canh, sau bữa ăn ai cũng vui vì được một bữa ăn tươi. Một thời gian sau tôi nhận được được thư của vợ tôi viết chỉ một con cua đá, mà làm bữa ăn tươi như thế thì chắc hàng ngày ăn uống kham khổ lắm nhỉ. Đọc thư này, tôi mới nhận ra mình đã viết hớ”. Đó là câu chuyện về một bữa ăn giản dị mang nặng tình đồng chí, đồng đội nhưng cũng mang đầy sự “nguy hiểm”. Cho đến bây giờ đã được hơn 40 năm nhưng ông không bao giờ quên kỷ niệm ấy. Trong lá thư năm 1966, ông viết: “Bây giờ là 6 giờ ngày 6 tháng 6 năm 1966, trong ngày giờ lịch sử này anh viết thư thăm em, anh ở trong này vẫn khỏe mạnh chưa bị sốt rét lần nào, người không yếu đi ... ở rừng thi mát mẻ lắm... tối ngủ rất ngon và tĩnh lặng nên về tinh thần dễ chịu lắm không bị ảnh hưởng về thần kinh…chỗ anh ở còn yên ổn hơn ngoài Bắc”. Nhưng thực chất lúc này ông đã nằm trên giường bệnh được một tuần để điều trị căn bệnh sốt rét ...

Tài liệu được xem nhiều: