Giải pháp góp phần minh định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Số trang: 26
Loại file: pdf
Dung lượng: 272.64 KB
Lượt xem: 19
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam...
Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, Đảng đã lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc chiến tranh xâm lược, đánh thắng thực dân, đế quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải pháp góp phần minh định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Giải pháp góp phần minh định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Quá trình phát triển của Nhà nước và xã hội Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Ảnh:ST Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam... Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, Đảng đã lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc chiến tranh xâm lược, đánh thắng thực dân, đế quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng đất nước và thống nhất nước nhà. Giai đoạn tiếp theo, Đảng lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện những mục tiêu mới: đưa dân tộc Việt Nam sánh ngang với các cường quốc trên thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời hằng mong ước. 1. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (và xã hội) phụ thuộc vào nhiệm vụ chiến lược, đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử và là quá trình phát triển từ thấp lên cao Lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, kể từ khi Đảng ra đời cho đến nay, quá trình phát triển của Nhà nước và xã hội Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng ta là phù hợp với quy luật và thực tiễn khách quan. Không những là ngọn đuốc trí tuệ soi đường, Đảng còn nằm trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam; không những là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng còn là mùa xuân của dân tộc. “Không biết có nơi nào trên trái đất này, một đảng chính trị lại được nhân dân thân thương gọi là Đảng ta như ở Việt Nam?”(1). Đó là sự thật lịch sử và là vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, cũng chính từ lý luận và thực tiễn ấy đã chỉ ra rằng, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, phụ thuộc vào nhiệm vụ chiến lược của từng thời kỳ đấu tranh cách mạng, phụ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử. Những năm tháng đầu tiên khi Đảng ta mới thành lập, Đảng ta phải hoạt động trong điều kiện bí mật. Chính quyền thực dân phong kiến đã đặt Đảng ra ngoài vòng pháp luật; chúng lùng bắt, giam cầm, tra tấn và giết hại dã man biết bao cán bộ của Đảng. Bất chấp sự khủng bố tàn khốc của địch, nhân dân ta được giác ngộ đã đi theo tiếng gọi của Đảng để hoạt động và phục vụ cách mạng, nuôi giấu và bảo vệ cán bộ của Đảng trong hầm bí mật, nhiều khi ở ngay tại nhà của mình. Trong những năm tháng gian khó đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng bằng Cương lĩnh chính trị và các chủ trương, chính sách hợp lòng dân; bằng tuyên truyền, vận động thuyết phục, bằng tổ chức, bằng bạo lực cách mạng. Với những cách thức đó, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng cũng như chính bản thân Đảng trong thời kỳ này là đối kháng sống còn với quyền lực của chính quyền thực dân phong kiến, song lại phù hợp với lòng dân nên được dân ủng hộ, đã tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, lớn mạnh hơn quyền lực của chính quyền thực dân phong kiến và đã đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến. Vì đối kháng sống còn với chính quyền thực dân phong kiến, nên trong thời gian này, Đảng ta cần và phải tổ chức hệ thống của riêng mình song song với hệ thống hành chính, kinh tế, văn hoá, sự nghiệp... để lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng nhằm đạp đổ chế độ cũ, giành chính quyền về tay nhân dân (2). Khi chính quyền đã về tay nhân dân, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, cán bộ của Đảng nắm giữ nhiều vị trí trọng yếu của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Trong thời kỳ này, bản thân Đảng cũng như quyền lực chính trị của Đảng là thống nhất với bộ máy nhà nước và quyền lực nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp, nhân dân ta đã lần lượt đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục đích của Đảng và cả hệ thống chính trị là xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó là không thay đổi, là sứ mệnh lịch sử của Đảng, nhưng mỗi giai đoạn, mỗi bước đi cần có các biện pháp thích ứng linh hoạt và phương thức lãnh đạo phù hợp. Lúc bóng tối, khi công khai; sẵn sàng đối kháng sống còn với địch, nhưng khi cần thiết, tự tuyên bố giải tán để rút vào hoạt động bí mật (3). Đó chính là phương châm ứng phó “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đầy mưu lược của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng (4). Ngày nay, trong tiến trình đổi mới của cả hệ thống chính trị, từng bộ phận của hệ thống ấy, trong đó Đảng là hạt nhân, rất cần sự đổi mới. Mặt khác, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân tất yếu đặt ra những nguyên tắc và yêu cầu mới trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng. Ngoài ra, quá trình hội nhập sâu rộng của nước ta vào đời sống và các diễn đàn quốc tế đã, đang và sẽ đặt ra các chuẩn mực mới về dân chủ, về quyền con người, về quyền lực nhân dân… Tổng hợp các yếu tố cho thấy rằng, tổ chức và hoạt động của Đảng, phương pháp lãnh đạo của Đảng cần có những thích ứng mới: đồng bộ với sự đổi mới của bộ máy nhà nước, tuân thủ các nguyên tắc, các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Trên nền tảng ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tình ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải pháp góp phần minh định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Giải pháp góp phần minh định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Quá trình phát triển của Nhà nước và xã hội Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Ảnh:ST Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam... Như một sự sắp đặt của lịch sử, năm 1930, Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, đến năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, Đảng đã lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc chiến tranh xâm lược, đánh thắng thực dân, đế quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng đất nước và thống nhất nước nhà. Giai đoạn tiếp theo, Đảng lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện những mục tiêu mới: đưa dân tộc Việt Nam sánh ngang với các cường quốc trên thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời hằng mong ước. 1. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (và xã hội) phụ thuộc vào nhiệm vụ chiến lược, đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử và là quá trình phát triển từ thấp lên cao Lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, kể từ khi Đảng ra đời cho đến nay, quá trình phát triển của Nhà nước và xã hội Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng ta là phù hợp với quy luật và thực tiễn khách quan. Không những là ngọn đuốc trí tuệ soi đường, Đảng còn nằm trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam; không những là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng còn là mùa xuân của dân tộc. “Không biết có nơi nào trên trái đất này, một đảng chính trị lại được nhân dân thân thương gọi là Đảng ta như ở Việt Nam?”(1). Đó là sự thật lịch sử và là vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, cũng chính từ lý luận và thực tiễn ấy đã chỉ ra rằng, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, phụ thuộc vào nhiệm vụ chiến lược của từng thời kỳ đấu tranh cách mạng, phụ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử. Những năm tháng đầu tiên khi Đảng ta mới thành lập, Đảng ta phải hoạt động trong điều kiện bí mật. Chính quyền thực dân phong kiến đã đặt Đảng ra ngoài vòng pháp luật; chúng lùng bắt, giam cầm, tra tấn và giết hại dã man biết bao cán bộ của Đảng. Bất chấp sự khủng bố tàn khốc của địch, nhân dân ta được giác ngộ đã đi theo tiếng gọi của Đảng để hoạt động và phục vụ cách mạng, nuôi giấu và bảo vệ cán bộ của Đảng trong hầm bí mật, nhiều khi ở ngay tại nhà của mình. Trong những năm tháng gian khó đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng bằng Cương lĩnh chính trị và các chủ trương, chính sách hợp lòng dân; bằng tuyên truyền, vận động thuyết phục, bằng tổ chức, bằng bạo lực cách mạng. Với những cách thức đó, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng cũng như chính bản thân Đảng trong thời kỳ này là đối kháng sống còn với quyền lực của chính quyền thực dân phong kiến, song lại phù hợp với lòng dân nên được dân ủng hộ, đã tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, lớn mạnh hơn quyền lực của chính quyền thực dân phong kiến và đã đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến. Vì đối kháng sống còn với chính quyền thực dân phong kiến, nên trong thời gian này, Đảng ta cần và phải tổ chức hệ thống của riêng mình song song với hệ thống hành chính, kinh tế, văn hoá, sự nghiệp... để lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng nhằm đạp đổ chế độ cũ, giành chính quyền về tay nhân dân (2). Khi chính quyền đã về tay nhân dân, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, cán bộ của Đảng nắm giữ nhiều vị trí trọng yếu của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Trong thời kỳ này, bản thân Đảng cũng như quyền lực chính trị của Đảng là thống nhất với bộ máy nhà nước và quyền lực nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp, nhân dân ta đã lần lượt đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục đích của Đảng và cả hệ thống chính trị là xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó là không thay đổi, là sứ mệnh lịch sử của Đảng, nhưng mỗi giai đoạn, mỗi bước đi cần có các biện pháp thích ứng linh hoạt và phương thức lãnh đạo phù hợp. Lúc bóng tối, khi công khai; sẵn sàng đối kháng sống còn với địch, nhưng khi cần thiết, tự tuyên bố giải tán để rút vào hoạt động bí mật (3). Đó chính là phương châm ứng phó “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đầy mưu lược của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng (4). Ngày nay, trong tiến trình đổi mới của cả hệ thống chính trị, từng bộ phận của hệ thống ấy, trong đó Đảng là hạt nhân, rất cần sự đổi mới. Mặt khác, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân tất yếu đặt ra những nguyên tắc và yêu cầu mới trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng. Ngoài ra, quá trình hội nhập sâu rộng của nước ta vào đời sống và các diễn đàn quốc tế đã, đang và sẽ đặt ra các chuẩn mực mới về dân chủ, về quyền con người, về quyền lực nhân dân… Tổng hợp các yếu tố cho thấy rằng, tổ chức và hoạt động của Đảng, phương pháp lãnh đạo của Đảng cần có những thích ứng mới: đồng bộ với sự đổi mới của bộ máy nhà nước, tuân thủ các nguyên tắc, các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Trên nền tảng ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tình ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
góp phần minh định sự lãnh đạo Khoa học pháp lý kinh nghiệm quốc tế nghiên cứu pháp luật cải cách tư pháp hệ thống pháp luật bộ máy nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 998 4 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 307 0 0 -
Tổng hợp các vấn đề về Luật Dân sự
113 trang 279 0 0 -
Bài thuyết trình Chi trả dịch vụ môi trường: Kinh nghiệm quốc tế
19 trang 245 0 0 -
9 trang 230 0 0
-
6 trang 178 0 0
-
22 trang 150 0 0
-
CẢI CÁCH TÒA ÁN–TRỌNG TÂM CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP
4 trang 127 0 0 -
Cải cách tòa án ở Việt Nam: Kết quả và những vấn đề đặt ra
7 trang 118 0 0 -
30 trang 117 0 0