Danh mục

GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 - 1975)_1

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 132.56 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo bài viết giải phóng hoàn toàn miền nam, giành toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc (1973 - 1975)_1, tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 - 1975)_1 GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, GIÀNH TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC (1973 - 1975)Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiếnchống Mĩ cứu nước từ sau ngày Hiệp định Pari được kí kết đến khi kếtthúc thắng lợi hoàn toàn bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.I- Tình hình địch và ta sau Hiệp định Pari.Sau khi Hiệp định Pari được kí kết, đế quốc Mĩ phải rút hết quân viễnchinh và quân chư hầu về nước. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố vàhiếu chiến, đế quốc Mĩ vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu áp đặt chủ nghĩathực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Dù đã thất bại, nhưng chúng vẫntiếp tục thực hiện Học thuyết Níchxơn, theo đuổi chiến lược Việt Namhoá chiến tranh. Chúng vẫn để lại ở miền Nam Việt Nam khoảng20.000 cố vấn quân sự đội lết dân sự, lập ra Bộ chỉ huy trá hình, tiếp tụcviện trợ kinh tế và quân sự cho ngụy quyền. Với âm mưu duy trì ngụyquyền Nguyễn Văn Thiệu, đế quốcMĩ và tay sai tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, ngăn cản con đường hoàhợp dân tộc, thống nhất đất nước. Chỉ tính từ 28-1 đến 28-3- 1973, ngụyquyền Thiệu đã vi phạm ngừng bắn 67.762 vụ 1. Mĩ tuy rút quân, nhưngkhông mang theo vũ khí, không triệt phá các căn cứ quân sự mà còn đưanhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh trái phép vào miền Nam.Về phía ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, được Mĩ giúp sức và trang bị,chúng hô hào 7ràn ngập lãnh thổ, tập trung lực lượng tổ chức các cuộchành quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng. Riêng trong tháng 11-1973, chúng sử dụng 60% chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địaphương, mở trên 360 cuộc hành quân lấn chiếm. Trong năm 1973, quânngụy tiến hành gần 10.000 cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm ở cácvùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hànhquân cảnh sát - bình định trong vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sứccủng cố và tăng cường lực lượng quân sự, nhằm làm cho quân ngụy đủsức đối phó với quân chủ lực của ta trong mọi tình huống. Trong năm1973, địch bắt thêm 240.000 lính, thu thập trên 130.000 quân đào, rã ngũvà bị thương, đưa tổng số quân thường trực lên tới 710.000 tên.Tất cả tình hình trên chứng tỏ những âm mưu đen tối của Mĩ - ngụy đốivới miền Nam nước ta vẫn không thay đổi. Chúng vạch ra nhiều kếhoạch quân sự, chính trị, kinh tế như: Kế hoạch cộng đồng tự vệ và pháttriển địa phương (1973 -1975), nhằm lấn chiếm toàn bộ vừng giải phóngcủa ta, lấp lại những lõm trong vùng chúng kiếm soát, xoá bỏ trạngthái hai vùng, hai quân đội, hai chính quyền; kế hoạch xây dựng quânngụy (1974 - 1979) nhằm hiện đại hoá quân đội ngụy; kế hoạch kinh tếhậu chiến (1973 - 1980) nhằm triển khai toàn diện nền kinh tế thực dânmới thuộc Mĩ, làm cho nền kinh tế miền Nam do chúng kiểm soát hơnhẳn nền kinh tế miền Bắc, loại trừ cách mạng miền Nam ra khỏi đờisống chính trị ở miền Nam Việt Nam.Âm mưu trên của địch được thực hiện trong hoàn cảnh Việt Nam vàĐông Dương đã có nhiều thay đổi không có lợi cho chúng. Về quân sự,quân viễn chinh đã rút về nước, viện trợ của Mĩ cho ngụy giảm dần, từ1.614 triệu đôla năm 1972-1973, rút xuống còn 1.026 triệu đôla năm1973-1974 và 701 triệu đôla năm 1974-1975. Về chính trị ngụy quyềnđang lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi đó, nước Mĩ chìmngập trong cuộc khủng hoảng lòng tin , kinh tế suy thoái nạn lạm phátvà thất nghiệp tăng, xã hội bị rối loạn...Về phía ta, từ sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, Trung ương Đảng dựkiến có hai khả năng: Hoặc là hoà bình được duy trì, Hiệp định đượcthực hiện từng bước, phong trào cách mạng miền Nam có điều kiện pháttriển những bước mới; hoặc là chiến tranh sẽ tiếp tục. Chúng ta ra sứctranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năngthứ hai.Trong 3 tháng đầu chuyển sang phương thức đấu tranh chính trị theopháp lí của Hiệp định Pari, có nơi, có lúc chúng ta quá nhấn mạnh đếnkhả năng hoà bình, chưa nhận rõ âm mưu của địch. Do ta mắc khuyếtđiểm và sơ hở trong chủ trương đối phó với hành động phá hoại Hiệpđịnh Pari của địch, nên chúng đã lấn chiếm và bình định được nhiềuvùng, khống chế lại dân.Riêng trong năm 1973, trên toàn miền Nam, địch đóng thêm 500 đồnbết, chiếm thêm 70 xã, 740 ấp kiểm soát thêm 650.000 dân. Trước tìnhhình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lầnthứ 21 (từ 29-6 đến 6-7-1973) và ra Nghị quyết mang tên: Thắng lợi vĩđại của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và nhiệm vụ của cáchmạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị xác định nhiệm vụ cơbản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là hoàn thành cáchmạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấutranh trên cả ba mặt trận: Chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địchphải thi hành Hiệp định Pari. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề giành dân,giành quyền làm chủ, phát triển lực lượng cách mạng là yêu cầu vừa bứcthiết, vừa cơ bản trong giai đo ...

Tài liệu được xem nhiều: