![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Giảm giá trị của Lợi thế Thương mại - Tính hợp lý của việc trình bày thông tin trên báo cáo tài chính
Số trang: 17
Loại file: pdf
Dung lượng: 289.56 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Xác định giảm giá trị của Lợi thế Thương mại theo Chuẩn mực lập Báo cáo tài chính quốc tế được xem là bước quan trọng trong việc chuyển đổi kế toán tài chính và lập Báo cáo tài chính từ phương pháp giá phí đến phương pháp giá trị hợp lý. Sự chuyển đổi này phản ánh nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính cũng như nỗ lực của cơ quan ban hành chính sách nhằm đảm bảo có được thông tin kế toán phù hợp hơn. Trong thực tế, các công ty áp dụng phương...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giảm giá trị của Lợi thế Thương mại - Tính hợp lý của việc trình bày thông tin trên báo cáo tài chính Giảm giá trị của Lợi thế Thương mại - Tính hợp lý của việc trình bày thông tin trên báo cáo tài chính Xác định giảm giá trị của Lợi thế Thương mại theo Chuẩn mực lập Báo cáo tài chính quốc tế được xem là bước quan trọng trong việc chuyển đổi kế toán tài chính và lập Báo cáo tài chính từ phương pháp giá phí đến phương pháp giá trị hợp lý. Sự chuyển đổi này phản ánh nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính cũng như nỗ lực của cơ quan ban hành chính sách nhằm đảm bảo có được thông tin kế toán phù hợp hơn. Trong thực tế, các công ty áp dụng phương pháp giá trị hợp lý để xác định giá trị có thể thu hồi của các đơn vị tạo tiền (CGU) dựa trên giá thị trường được cho là đem lại kết quả có độ tin cậy cao nhất. Tuy nhiên các nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, so sánh trong 249 công ty thuộc năm ngành khác nhau để rút ra những kết luận về tính hiệu quả của việc áp dụng phương pháp này. Từ đó, bài viết đã liên hệ với thực tiễn của Việt nam và gợi ý một số vấn đề cần sửa đổi và hoàn thiện đối với chuẩn mực kế toán số 36 (VAS 36) trong thời gian tới. 1. Giới thiệu phương pháp giá trị hợp lý trong việc xác định giảm giá trị Lợi thế thương mại của HKAS 36 Việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về công tác kế toán và phương pháp lập báo cáo đối với Lợi thế thương mại được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hồng Kông. Phương pháp xác định giảm giá trị của Lợi thế thương mại theo IFRS hoàn toàn khác với các phương pháp ghi nhận và xử lý trước đó. Về nguyên tắc, Lợi thế thương mại sẽ được xem xét giảm giá trị khi đơn vị không thể bù lại được giá trị ghi sổ trên Bảng cân đối kế toán. Xác định giảm giá trị của Lợi thế thương mại theo Chuẩn mực kế toán Hồng Kông số 36 (HKAS 36) “Giảm giá trị của tài sản” được áp dụng cho kỳ lập báo cáo tài chính từ 1/1/2005, yêu cầu xác định “Giá trị có thể thu hồi” đối với Lợi thế thương mại theo năm. Giá trị có thể thu hồi của Lợi thế thương mại được so sánh với giá trị ghi sổ của Lợi thế thương mại để xác định chi phí giảm giá trị của nó (nếu có). Giá trị có thể thu hồi được xác định là giá trị cao hơn giữa giá trị hợp lý và giá trị sử dụng. Các nghiên cứu trước đây nhằm kiểm tra chất lượng thông tin trình bày và tính tuân thủ về ghi giảm giá trị của Lợi thế thương mại ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Úc, New Zealand… đã chỉ ra những điểm không nhất quán trong việc tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính, trong đó đặc biệt tập trung vào các thông tin liên quan đến việc áp dụng phương pháp giá trị sử dụng trong việc xác định giảm giá trị của tài sản. Trong HKAS 36 quy định ngoài phương pháp giá trị sử dụng thì phương pháp giá trị hợp lý cũng được áp dụng để xác định giảm giá trị của tài sản trong một số trường hợp nhất định. Hiện tại, chưa có một nghiên cứu nào về chất lượng thông tin trình bày theo phương pháp giá trị hợp lý trong đó có trình bày thông tin Lợi thế thương mại và tính tuân thủ về giảm giá trị của Lợi thế thương mại trên báo cáo tài chính tại Hồng Kông trong những năm đầu áp dụng IFRS. Do vậy, nghiên cứu này có mục đích đánh giá chất lượng thông tin trình bày và tính tuân thủ HKAS 36 của các công ty niêm yết có quy mô lớn trên thị trường chứng khoán Hồng Kông. 2. Những quy định chung của HKAS 36 Các chuẩn mực kế toán của hầu hết các nước hiện hành quy định sử dụng giá phí trong việc ghi nhận, đo lường và báo cáo các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, xu hướng ngày càng tăng lên theo hướng nguyên tắc giá phí sẽ dần bị thay thế bởi kế toán theo phương pháp giá trị hợp lý. Sự chuyển đổi này phản ánh nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính cũng như nỗ lực của cơ quan ban hành chính sách trong việc tạo ra thông tin kế toán phù hợp hơn. Trước năm 1938, phương pháp giá trị hợp lý được áp dụng đối với ngân hàng và các tổ chức tài chính. Do trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, nhu cầu cần thiết đối với các tổ chức tài chính ghi giảm giá cổ phần, báo cáo lỗ và giảm công nợ để xác định giá trị hợp lý của ngân hàng và của tổ chức tài chính, đến năm 1947, phương pháp này xuất hiện lại trong việc xác định “Hàng tồn kho” theo giá trị thuần có thể thực hiện được hoặc theo giá thị trường. Ngày nay, việc đo lường theo phương pháp giá trị hợp lý đang trở nên phổ biến trong chuẩn mực lập báo cáo tài chính bao gồm: - Chứng khoán giao dịch hoặc công nợ để dàn xếp nghĩa vụ thanh toán theo công cụ tài chính; - Tài sản hoặc công nợ có được từ hợp nhất kinh doanh và xác định giá trị ban đầu của Lợi thế thương mại; - Tài sản hoặc công nợ được điều chỉnh định kỳ như xác định giảm giá trị của tài sản, giảm giá trị của Lợi thế thương mại; - Nghiệp vụ liên quan đến trao đổi tài sản giữa các bên độc lập không thanh toán bằng tiền; Kế toán về Lợi thế thương mại đã thay đổi ở Hồng Kông từ 1/1/2005 theo Chuẩn mực số 3 “Hợp nhất kinh doanh” (HKFRS 3) và HKAS 36. Hiện tại, Lợi thế thương mại được ghi nhận ban đầu theo HKFRS 3 như là giá trị chênh lệch giữa giá mua và giá trị hợp lý của tài sản trừ (-) đi giá trị hợp lý của công nợ phải trả (trong trường hợp giá mua cao hơn giá trị hợp lý của tài sản và công nợ). Theo quy định của HKAS 36, Lợi thế thương mại có được từ Hợp nhất kinh doanh không được khấu hao mà được xác định giảm giá trị hàng năm hoặc bất cứ khi nào có sự kiện hoặc dấu hiệu chỉ ra rằng giá trị có thể thu hồi bị giảm sút, đó là giá trị ghi sổ vượt quá giá trị có thể thu hồi. Một vấn đề đáng bàn luận trong việc xác định giá trị có thể thu hồi của Lợi thế thương mại xuất phát từ thực tế rằng Lợi thế thương mại không tạo ra lợi nhuận 1 cách riêng biệt, do chúng không thể nhận diện riêng biệt mà chúng được gắn với đơn vị tạo tiền. Đơn vị tạo tiền (CGU) là nhóm tài sản nhận diện nhỏ nhất mà nó tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng tiền vào của các tài sản khác hoặc nhóm tài ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giảm giá trị của Lợi thế Thương mại - Tính hợp lý của việc trình bày thông tin trên báo cáo tài chính Giảm giá trị của Lợi thế Thương mại - Tính hợp lý của việc trình bày thông tin trên báo cáo tài chính Xác định giảm giá trị của Lợi thế Thương mại theo Chuẩn mực lập Báo cáo tài chính quốc tế được xem là bước quan trọng trong việc chuyển đổi kế toán tài chính và lập Báo cáo tài chính từ phương pháp giá phí đến phương pháp giá trị hợp lý. Sự chuyển đổi này phản ánh nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính cũng như nỗ lực của cơ quan ban hành chính sách nhằm đảm bảo có được thông tin kế toán phù hợp hơn. Trong thực tế, các công ty áp dụng phương pháp giá trị hợp lý để xác định giá trị có thể thu hồi của các đơn vị tạo tiền (CGU) dựa trên giá thị trường được cho là đem lại kết quả có độ tin cậy cao nhất. Tuy nhiên các nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, so sánh trong 249 công ty thuộc năm ngành khác nhau để rút ra những kết luận về tính hiệu quả của việc áp dụng phương pháp này. Từ đó, bài viết đã liên hệ với thực tiễn của Việt nam và gợi ý một số vấn đề cần sửa đổi và hoàn thiện đối với chuẩn mực kế toán số 36 (VAS 36) trong thời gian tới. 1. Giới thiệu phương pháp giá trị hợp lý trong việc xác định giảm giá trị Lợi thế thương mại của HKAS 36 Việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về công tác kế toán và phương pháp lập báo cáo đối với Lợi thế thương mại được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hồng Kông. Phương pháp xác định giảm giá trị của Lợi thế thương mại theo IFRS hoàn toàn khác với các phương pháp ghi nhận và xử lý trước đó. Về nguyên tắc, Lợi thế thương mại sẽ được xem xét giảm giá trị khi đơn vị không thể bù lại được giá trị ghi sổ trên Bảng cân đối kế toán. Xác định giảm giá trị của Lợi thế thương mại theo Chuẩn mực kế toán Hồng Kông số 36 (HKAS 36) “Giảm giá trị của tài sản” được áp dụng cho kỳ lập báo cáo tài chính từ 1/1/2005, yêu cầu xác định “Giá trị có thể thu hồi” đối với Lợi thế thương mại theo năm. Giá trị có thể thu hồi của Lợi thế thương mại được so sánh với giá trị ghi sổ của Lợi thế thương mại để xác định chi phí giảm giá trị của nó (nếu có). Giá trị có thể thu hồi được xác định là giá trị cao hơn giữa giá trị hợp lý và giá trị sử dụng. Các nghiên cứu trước đây nhằm kiểm tra chất lượng thông tin trình bày và tính tuân thủ về ghi giảm giá trị của Lợi thế thương mại ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Úc, New Zealand… đã chỉ ra những điểm không nhất quán trong việc tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính, trong đó đặc biệt tập trung vào các thông tin liên quan đến việc áp dụng phương pháp giá trị sử dụng trong việc xác định giảm giá trị của tài sản. Trong HKAS 36 quy định ngoài phương pháp giá trị sử dụng thì phương pháp giá trị hợp lý cũng được áp dụng để xác định giảm giá trị của tài sản trong một số trường hợp nhất định. Hiện tại, chưa có một nghiên cứu nào về chất lượng thông tin trình bày theo phương pháp giá trị hợp lý trong đó có trình bày thông tin Lợi thế thương mại và tính tuân thủ về giảm giá trị của Lợi thế thương mại trên báo cáo tài chính tại Hồng Kông trong những năm đầu áp dụng IFRS. Do vậy, nghiên cứu này có mục đích đánh giá chất lượng thông tin trình bày và tính tuân thủ HKAS 36 của các công ty niêm yết có quy mô lớn trên thị trường chứng khoán Hồng Kông. 2. Những quy định chung của HKAS 36 Các chuẩn mực kế toán của hầu hết các nước hiện hành quy định sử dụng giá phí trong việc ghi nhận, đo lường và báo cáo các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, xu hướng ngày càng tăng lên theo hướng nguyên tắc giá phí sẽ dần bị thay thế bởi kế toán theo phương pháp giá trị hợp lý. Sự chuyển đổi này phản ánh nhu cầu của người sử dụng báo cáo tài chính cũng như nỗ lực của cơ quan ban hành chính sách trong việc tạo ra thông tin kế toán phù hợp hơn. Trước năm 1938, phương pháp giá trị hợp lý được áp dụng đối với ngân hàng và các tổ chức tài chính. Do trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, nhu cầu cần thiết đối với các tổ chức tài chính ghi giảm giá cổ phần, báo cáo lỗ và giảm công nợ để xác định giá trị hợp lý của ngân hàng và của tổ chức tài chính, đến năm 1947, phương pháp này xuất hiện lại trong việc xác định “Hàng tồn kho” theo giá trị thuần có thể thực hiện được hoặc theo giá thị trường. Ngày nay, việc đo lường theo phương pháp giá trị hợp lý đang trở nên phổ biến trong chuẩn mực lập báo cáo tài chính bao gồm: - Chứng khoán giao dịch hoặc công nợ để dàn xếp nghĩa vụ thanh toán theo công cụ tài chính; - Tài sản hoặc công nợ có được từ hợp nhất kinh doanh và xác định giá trị ban đầu của Lợi thế thương mại; - Tài sản hoặc công nợ được điều chỉnh định kỳ như xác định giảm giá trị của tài sản, giảm giá trị của Lợi thế thương mại; - Nghiệp vụ liên quan đến trao đổi tài sản giữa các bên độc lập không thanh toán bằng tiền; Kế toán về Lợi thế thương mại đã thay đổi ở Hồng Kông từ 1/1/2005 theo Chuẩn mực số 3 “Hợp nhất kinh doanh” (HKFRS 3) và HKAS 36. Hiện tại, Lợi thế thương mại được ghi nhận ban đầu theo HKFRS 3 như là giá trị chênh lệch giữa giá mua và giá trị hợp lý của tài sản trừ (-) đi giá trị hợp lý của công nợ phải trả (trong trường hợp giá mua cao hơn giá trị hợp lý của tài sản và công nợ). Theo quy định của HKAS 36, Lợi thế thương mại có được từ Hợp nhất kinh doanh không được khấu hao mà được xác định giảm giá trị hàng năm hoặc bất cứ khi nào có sự kiện hoặc dấu hiệu chỉ ra rằng giá trị có thể thu hồi bị giảm sút, đó là giá trị ghi sổ vượt quá giá trị có thể thu hồi. Một vấn đề đáng bàn luận trong việc xác định giá trị có thể thu hồi của Lợi thế thương mại xuất phát từ thực tế rằng Lợi thế thương mại không tạo ra lợi nhuận 1 cách riêng biệt, do chúng không thể nhận diện riêng biệt mà chúng được gắn với đơn vị tạo tiền. Đơn vị tạo tiền (CGU) là nhóm tài sản nhận diện nhỏ nhất mà nó tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng tiền vào của các tài sản khác hoặc nhóm tài ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài chính ngân hàng tài chính doanh nghiệp tín dụng Giảm giá trị của Lợi thế Thương mạiTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 779 21 0 -
2 trang 509 0 0
-
18 trang 463 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 446 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 429 12 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 392 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 375 10 0 -
3 trang 312 0 0
-
Tạo nền tảng phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam
3 trang 302 0 0 -
Đề cương học phần Tài chính doanh nghiệp
20 trang 289 0 0