Thông tin tài liệu:
Virut là loại vi sinh vật có kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn và chỉ thấy được nhờ kính hiển vi điện tử có độ phóng đại hàng triệu lần. Virut sống ký sinh bên trong tế bào chủ mà nó xâm nhiễm. Như chúng ta đã biết, HIV sống bên trong tế bào bạch cầu có tên lym-pho bào T (gọi tắt là CD4), còn virut cúm A thì sống bên trong tế bào của hệ hô hấp. Hiện nay, các bệnh lây nhiễm gây đại dịch trên thế giới như HIV/AIDS, Coronavirus gây bệnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gian nan cuộc chiến chống lại virutGian nan cuộc chiến chống lại virutVirut là loại vi sinh vật có kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với vikhuẩn và chỉ thấy được nhờ kính hiển vi điện tử có độ phóng đạihàng triệu lần. Virut sống ký sinh bên trong tế bào chủ mà nóxâm nhiễm.Như chúng ta đã biết, HIV sống bên trong tế bào bạch cầu có tênlym-pho bào T (gọi tắt là CD4), còn virut cúm A thì sống bêntrong tế bào của hệ hô hấp. Hiện nay, các bệnh lây nhiễm gâyđại dịch trên thế giới như HIV/AIDS, Coronavirus gây bệnhSARS, cúm A/H5N1 gây hội chứng viêm phổi cấp đều có tácnhân gây bệnh do virut gây ra. Đây là những loại virut gây bệnhnguy hiểm với tỷ lệ tử vong rất cao.Nhiều thuốc đã được đưa vào sử dụngSố lượng các thuốc được sử dụng để điều trị nhiễm virut thực sựtǎng lên trong những nǎm thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Đặc biệtcác thuốc kháng retrovirus. Amantadine là thuốc chống viruttoàn thân đầu tiên được Cục quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ(FDA) cấp phép vào nǎm 1966. Amantadine tác dụng ở giaiđoạn đầu, tức là ức chế sự hòa nhập virut vào bên trong tế bàosinh vật chủ. Vidarabine là thuốc đầu tiên dùng để điều trị nhiễmHerpes, được cho phép dùng vào nǎm 1976, tiếp theo làtrifluridine vào nǎm 1980 và acyclovir vào nǎm 1982. Các thuốckhác cùng họ acyclovir bao gồm famciclovir (1994), ganciclovir(1996) và valacyclovir (1995), một tiền chất của acyclovir. Cácthuốc kháng virut khác và thời gian được FDA cấp phép làribavirin, aerosol (1985), alfa interferon (1986), foscarnet(1991), rimantadine (1993) và fomivirsen (1998). Ribavirinuống được cấp phép và được phép phối hợp với interferon vàonǎm 1998 để điều trị viêm gan C. Vidarabine, trifluridine vàfomivirsen chỉ được dùng trong nhãn khoa. Cidofovir (1994) làthuốc đầu tiên trong nhóm chống virut đã được biết là chấttương tự acyclic phosphonate nucleotid. Cidofovir có cấu trúctương tự như cyclovir và ganciclovir. Lamivudine, ban đầu đượccho phép dùng là một thuốc chống retrovirus vào nǎm 1995, đãđược cấp phép với liều thấp hơn để điều trị viêm gan B vào nǎm1998. Phòng pha chế thuốc bệnh viện đạt chuẩn.Một số thuốc thông dụngRibavirin: Tác dụng ở giai đoạn hai, tức là ức chế virut (đặc biệtvirut cúm) tổng hợp RNA của nó, từ đó ức chế sự sao chép củavirut bên trong tế bào. Cũng thuộc loại này, acyleovir ức chế sựtổng hợp DNA của virus Herpes.Zidovudine (Retrovir, còn gọi tắt AZT): Ðây là thuốc trị HIV.Cơ chế của thuốc là ức chế sự phiên mã ngược RNA thành DNAcủa HIV làm cho HIV ngưng phát triển, không sinh sản được.Cũng thuộc loại này còn có didanosine, zalcitabine,lamivudine...Oseltamivir (tamiflu): Thuốc có tác dụng ở giai đoạn cuối, tức làngăn không cho virut cúm sao chép trưởng thành và phóng thíchra khỏi tế bào bằng cách ức chế men neuraminidase (chính làkháng nguyên N của lớp vỏ virut cúm).Thuốc ức chế protease: Gồm có indinavir, ritonavir, saquinavir,nelfinavir. Ðây là nhóm thuốc phối hợp với AZT để trị HIV. Cơchế của thuốc ức chế protease là làm cho men phân giải đạm củaHIV không hoạt động được, để nó không nhân lên nhiều HIVmới.Gamma globulin và interferon: Ðây chính là các chất sinh họcdo cơ thể sản xuất ra để chống lại virut. Gamma globulin ngănvirut xâm nhập vào tế bào vì có chứa kháng thể chống lại khángnguyên bề mặt nằm trên lớp vỏ của virut. Còn interferon khángvirut bằng cách ngăn cản virut tổng hợp protein, RNA hoặcDNA của nó trong tế bào. Như vậy, trong cơ thể ta luôn có nộilực kháng lại bệnh tật, kể cả các bệnh truyền nhiễm do virut.Hiểu rõ điều này, các nhà khoa học đã tổng hợp gamma globulinvà interferon dùng làm thuốc.Các thuốc chống virut là nhóm thuốc gồm nhiều loại khác nhau.Các thuốc này có thể phân biệt dựa trên cơ chế tác dụng củachúng, độ nhạy cảm với virut và tác dụng bất lợi. Amantadine vàrimantadine thường được sử dụng để phòng và điều trị nhiễmvirut cúm A; Những thuốc này không có tác dụng chống virutcúm B. Amantadine và rimantadine có cơ chế tác dụng tương tựnhau, rimantadine xâm nhập vào dịch đường hô hấp hiệu quảhơn amantadine. Tác dụng bất lợi của rimantadine có thể dễchấp nhận hơn cho người già. Oseltamivir và zanamivir tác dụngchống lại cả virut cúm A và B. Zanamivir có ở dưới dạng bộtxịt, còn oseltamivir ở dạng viên nang.Các phản ứng có hạiCác thuốc kháng virut nói chung đều độc đối với tế bào.Acyclovir gây nhiễm độc thận do kết lắng độc tố thận. Nhữngbệnh nhân mất nước và suy thận dùng liệu pháp acyclovir tĩnhmạch liều cao có nguy cơ cao. Acyclovir, gamciclovir vàvalacyclovir liều cao gây các triệu chứng thần kinh. Ganciclovirlà một thuốc gây độc tế bào và có thể gây nhiễm độc đáng kể đốivới tủy xương. Foscarnet và cidofovir gây nhiễm độc thận ở liềugiới hạn. Cidofovir gây hoại tử ống thận (tổn thương tế bào ốnglượn gần) mức độ tổn thương tỷ lệ thuận với liều dùng thuốc.Suy thận cấp góp phần gây tử vong đã xảy ra khi dùng một hoặchai liều cidofovir. Hơn nữa, ci ...