Giáo Trình Bệnh Truyền Nhiễm Thú Y - Chương 1
Số trang: 35
Loại file: pdf
Dung lượng: 635.84 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chương 1 CƠ CHẾ PHÁT BỆNH TRUYỀN NHIỄM (BỆNH CẢM NHIỄM)
I. Cảm nhiễm và phát bệnh
1. Mầm bệnh (căn bệnh, bệnh nguyên)
Khác với bệnh không truyền nhiễm, các bệnh truyền nhiễm có một đặc tính chung là có tính lây lan và do một loại, hoặc đôi khi một số loại, vi sinh vật gọi là mầm bệnh gây nên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo Trình Bệnh Truyền Nhiễm Thú Y - Chương 1 Chương 1 CƠ CHẾ PHÁT BỆNH TRUYỀN NHIỄM (BỆNH CẢM NHIỄM) I. Cảm nhiễm và phát bệnh 1. Mầm bệnh (căn bệnh, bệnh nguyên) Khác với bệnh không truyền nhiễm, các bệnh truyền nhiễm có một đặc tính chung là có tính lây lan và do một loại, hoặc đôi khi một số loại, vi sinh vật gọi là mầm bệnh gây nên. Một mầm bệnh là một vi sinh vật đóng vai trò nguyên nhân trực tiếp và không thể thiếu của một bệnh truyền nhiễm. Mầm bệnh có nhiều loại và mỗi loại thường gây nên bệnh với những đặc điểm riêng, nhưng chúng có điểm chung là tính gây bệnh (hay độc tính) đối với ký chủ. Vi khuẩn là nhóm lớn vi sinh vật có đặc điểm chung là có nhân nguyên thủy, tức nhân chưa có màng nhân và cấu tạo từ một ADN xoắn kép, vòng khép kín, cơ thể thường là đơn bào và sinh sản bằng trực phân. Phần lớn vi khuẩn đòi hỏi những điều kiện nhất định, chẳng hạn tính kết bám (bám dính) lên tế bào, mới gây được bệnh. Vi khuẩn tác động bằng nội độc tố, ngoại độc tố hoặc bằng các cơ chế lý, hóa khác. Xoắn khuẩn (bộ Spirochaetales) tuy cũng là một loại vi khuẩn nhưng chúng gây ra những bệnh có đặc điểm riêng. Phần lớn bệnh do xoắn khuẩn gây nên là bệnh bại huyết, gây sốt định kỳ và xuất hiện định kỳ xoắn khuẩn trong cơ thể, bệnh do xoắn khuẩn thường cho miễn dịch không bền. Rickettsia cũng là những vi khuẩn nhưng có cơ cấu trao đổi chất không hoàn thiện nên phụ thuộc vào tế bào ký chủ, do đó là những vật ký sinh nội bào. Chúng gây những bệnh sốt phát ban do chấy rận truyền lây. Những động vật chân đốt này có thể truyền Rickettsia trong nhiều thế hệ của chúng. Trong thiên nhiên có những thú rừng hoặc gia súc mang trùng. Bệnh do Rickettsia gây ra thường cho miễn dịch mạnh và bền. Chlamydia có những đặc điểm tương tự Rickettsia nhưng không có cơ cấu trao đổi chất nên phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng của ký chủ và có hình thái chuyển hóa tuần hoàn từ trạng thái nhỏ (thể cơ bản) sang trạng thái lớn (thể lưới). Mycoplasma cũng là những vi khuẩn nhưng kích thước nhỏ và không có vách tế bào nên thường có hình thái đa dạng. Chúng gồm nhiều loại. Vi khuẩn thuộc nhóm này được phân lập đầu tiên là sinh vật gây bệnh viêm phổi - màng phổi có tên tắt là PPO (pleuropneumonia organism), cho nên các Mycoplasma phân lập được từ các trường hợp khác thường được gọi là PPLO (pleuropneumonia-like organisms). Chúng thường gây ra những bệnh mãn tính nhưng lây lan mạnh, có hiện tượng mang trùng lâu dài và gây miễn dịch bền vững. Xạ khuẩn (Actinomyces) và nhóm liên quan xạ khuẩn (các chi Streptomyces, Nocardia,...) cũng là những vi khuẩn vì có đặc điểm chung là nhân nguyên thủy nhưng chúng lại có cơ thể hình sợi thường cong, xoắn và phân nhánh. Xạ khuẩn lan rộng dần từ một điểm (đặc biệt trong bệnh phẩm) theo hình phát xạ của ánh sánh mặt trời và sinh bào tử đồng loạt như các nấm (vì vậy trước đây chúng được coi là nấm bậc thấp). Virut là nhóm lớn vi sinh vật rất nhỏ, chưa có cấu trúc tế bào, có những thuộc tính ở ranh giới giữa vật vô sinh và vật hữu sinh. Chúng thường có tính hướng đối với một loại tổ chức nhất định, do đó thường gây những biểu hiện giống nhau ở những động vật khác loài. Bệnh do virut gây nên thường lây lan mạnh, có hiện tượng mang trùng và làm trỗi dậy những bệnh ghép khác nhưng cũng thường gây miễn dịch mạnh và bền. Nấm (hay chân khuẩn) là sinh vật nhân thực, tức nhân có màng nhân, phụ thuộc vào hình thái mà thường được chia thành nấm men và nấm sợi. Thuật ngữ nấm mốc chỉ các loại nấm sợi không đạt kích thước lớn như nấm mũ (lớp Nấm đảm). Đa số nấm sợi và men gây bệnh thường sống hoại sinh trong thiên nhiên, có bào tử có thể sống lâu dài ở ngoại cảnh. Một số nấm gây bệnh thường có hai dạng hình thái phụ thuộc vào điều kiện phát triển bên trong hay bên ngoài cơ thể động vật. Khi nhuộm tiêu bản bệnh phẩm những nấm này ta thường thấy chúng có dạng hình cầu hay hình trứng (dạng nấm men) nhưng khi nuôi cấy ở môi trường nhân tạo chúng lại có dạng sợi (khuẩn ty). Vì vậy, chúng thường được gọi là nấm nhị hình. Nhìn chung, các bệnh do các nấm gây ra thường mãn tính và cho miễn dịch không vững chắc. Nguyên trùng (protozoa) cũng là các sinh vật nhân thực, thường được coi là động vật bậc thấp. Vì thế nguyên trùng gây bệnh được coi là các động vật ký sinh (zooparasites) trong khi các yếu tố khác nêu trên (vi khuẩn, virut, nấm) đều được coi là các thực vật ký sinh (phytoparasites). Vì vậy, nhiều tài liệu bệnh cảm nhiễm (bệnh truyền nhiễm gia súc) không mô tả loại tác nhân gây bệnh này một cách không thích đáng. Các nguyên trùng ký sinh đường máu gây nên bệnh truyền nhiễm có đặc điểm là thường do côn trùng hút máu truyền lây. Bệnh không có miễn dịch thực sự mà thường chỉ cho miễn dịch có trùng. Việc xác định một vi sinh vật có phải là một mầm bệnh hay không là không dễ. Trên cơ thể động vật có nhiều loại vi sinh vật chung sống tạo thành khu hệ vi sinh vật bình thường, hay còn gọi là vi khuẩn chí bình thường, không gây bệnh, đã thiết lập được sự cân bằng với ký chủ nên cả hai bên tồn tại và phát triển một cách cùng có lợi. Vi sinh vật gây bệnh (mầm bệnh) cũng có thể gây bệnh ẩn tính hoặc nhiều khi bệnh trải qua không thấy có biểu hiện gì. Vì vậy, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan cho việc xác định mầm bệnh. Koch, khi nghiên cứu bệnh lao đã đề ra bốn nguyên tắc xác định mầm bệnh (định đề Koch). Những nguyên tắc này là 1) vi sinh vật gây bệnh nhất định phân lập được từ tất cả các trường hợp bệnh và phân bố của nó trong cơ thể nhất trí với bệnh biến, 2) có thể bồi dưỡng được vi sinh vật đó dưới dạng lứa cấy thuần khiết trong ống nghiệm, 3) nhất định gây bệnh thực nghiệm được với vi sinh vật gây bệnh đó ở động vật mẫn cảm và 4) từ động vật cảm nhiễm thực nghiệm lại có thể phân lập được vi sinh vật đó. Những nguyên tắc của Koch đã đóng vai trò to lớn trong quá trình phát hiện mầm bệnh truyền nhiễm, nhưng từ cuối thế kỷ XIX, càng ngày người ta càng thấy nhiều vi sinh vật là nguyên nhân ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo Trình Bệnh Truyền Nhiễm Thú Y - Chương 1 Chương 1 CƠ CHẾ PHÁT BỆNH TRUYỀN NHIỄM (BỆNH CẢM NHIỄM) I. Cảm nhiễm và phát bệnh 1. Mầm bệnh (căn bệnh, bệnh nguyên) Khác với bệnh không truyền nhiễm, các bệnh truyền nhiễm có một đặc tính chung là có tính lây lan và do một loại, hoặc đôi khi một số loại, vi sinh vật gọi là mầm bệnh gây nên. Một mầm bệnh là một vi sinh vật đóng vai trò nguyên nhân trực tiếp và không thể thiếu của một bệnh truyền nhiễm. Mầm bệnh có nhiều loại và mỗi loại thường gây nên bệnh với những đặc điểm riêng, nhưng chúng có điểm chung là tính gây bệnh (hay độc tính) đối với ký chủ. Vi khuẩn là nhóm lớn vi sinh vật có đặc điểm chung là có nhân nguyên thủy, tức nhân chưa có màng nhân và cấu tạo từ một ADN xoắn kép, vòng khép kín, cơ thể thường là đơn bào và sinh sản bằng trực phân. Phần lớn vi khuẩn đòi hỏi những điều kiện nhất định, chẳng hạn tính kết bám (bám dính) lên tế bào, mới gây được bệnh. Vi khuẩn tác động bằng nội độc tố, ngoại độc tố hoặc bằng các cơ chế lý, hóa khác. Xoắn khuẩn (bộ Spirochaetales) tuy cũng là một loại vi khuẩn nhưng chúng gây ra những bệnh có đặc điểm riêng. Phần lớn bệnh do xoắn khuẩn gây nên là bệnh bại huyết, gây sốt định kỳ và xuất hiện định kỳ xoắn khuẩn trong cơ thể, bệnh do xoắn khuẩn thường cho miễn dịch không bền. Rickettsia cũng là những vi khuẩn nhưng có cơ cấu trao đổi chất không hoàn thiện nên phụ thuộc vào tế bào ký chủ, do đó là những vật ký sinh nội bào. Chúng gây những bệnh sốt phát ban do chấy rận truyền lây. Những động vật chân đốt này có thể truyền Rickettsia trong nhiều thế hệ của chúng. Trong thiên nhiên có những thú rừng hoặc gia súc mang trùng. Bệnh do Rickettsia gây ra thường cho miễn dịch mạnh và bền. Chlamydia có những đặc điểm tương tự Rickettsia nhưng không có cơ cấu trao đổi chất nên phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng của ký chủ và có hình thái chuyển hóa tuần hoàn từ trạng thái nhỏ (thể cơ bản) sang trạng thái lớn (thể lưới). Mycoplasma cũng là những vi khuẩn nhưng kích thước nhỏ và không có vách tế bào nên thường có hình thái đa dạng. Chúng gồm nhiều loại. Vi khuẩn thuộc nhóm này được phân lập đầu tiên là sinh vật gây bệnh viêm phổi - màng phổi có tên tắt là PPO (pleuropneumonia organism), cho nên các Mycoplasma phân lập được từ các trường hợp khác thường được gọi là PPLO (pleuropneumonia-like organisms). Chúng thường gây ra những bệnh mãn tính nhưng lây lan mạnh, có hiện tượng mang trùng lâu dài và gây miễn dịch bền vững. Xạ khuẩn (Actinomyces) và nhóm liên quan xạ khuẩn (các chi Streptomyces, Nocardia,...) cũng là những vi khuẩn vì có đặc điểm chung là nhân nguyên thủy nhưng chúng lại có cơ thể hình sợi thường cong, xoắn và phân nhánh. Xạ khuẩn lan rộng dần từ một điểm (đặc biệt trong bệnh phẩm) theo hình phát xạ của ánh sánh mặt trời và sinh bào tử đồng loạt như các nấm (vì vậy trước đây chúng được coi là nấm bậc thấp). Virut là nhóm lớn vi sinh vật rất nhỏ, chưa có cấu trúc tế bào, có những thuộc tính ở ranh giới giữa vật vô sinh và vật hữu sinh. Chúng thường có tính hướng đối với một loại tổ chức nhất định, do đó thường gây những biểu hiện giống nhau ở những động vật khác loài. Bệnh do virut gây nên thường lây lan mạnh, có hiện tượng mang trùng và làm trỗi dậy những bệnh ghép khác nhưng cũng thường gây miễn dịch mạnh và bền. Nấm (hay chân khuẩn) là sinh vật nhân thực, tức nhân có màng nhân, phụ thuộc vào hình thái mà thường được chia thành nấm men và nấm sợi. Thuật ngữ nấm mốc chỉ các loại nấm sợi không đạt kích thước lớn như nấm mũ (lớp Nấm đảm). Đa số nấm sợi và men gây bệnh thường sống hoại sinh trong thiên nhiên, có bào tử có thể sống lâu dài ở ngoại cảnh. Một số nấm gây bệnh thường có hai dạng hình thái phụ thuộc vào điều kiện phát triển bên trong hay bên ngoài cơ thể động vật. Khi nhuộm tiêu bản bệnh phẩm những nấm này ta thường thấy chúng có dạng hình cầu hay hình trứng (dạng nấm men) nhưng khi nuôi cấy ở môi trường nhân tạo chúng lại có dạng sợi (khuẩn ty). Vì vậy, chúng thường được gọi là nấm nhị hình. Nhìn chung, các bệnh do các nấm gây ra thường mãn tính và cho miễn dịch không vững chắc. Nguyên trùng (protozoa) cũng là các sinh vật nhân thực, thường được coi là động vật bậc thấp. Vì thế nguyên trùng gây bệnh được coi là các động vật ký sinh (zooparasites) trong khi các yếu tố khác nêu trên (vi khuẩn, virut, nấm) đều được coi là các thực vật ký sinh (phytoparasites). Vì vậy, nhiều tài liệu bệnh cảm nhiễm (bệnh truyền nhiễm gia súc) không mô tả loại tác nhân gây bệnh này một cách không thích đáng. Các nguyên trùng ký sinh đường máu gây nên bệnh truyền nhiễm có đặc điểm là thường do côn trùng hút máu truyền lây. Bệnh không có miễn dịch thực sự mà thường chỉ cho miễn dịch có trùng. Việc xác định một vi sinh vật có phải là một mầm bệnh hay không là không dễ. Trên cơ thể động vật có nhiều loại vi sinh vật chung sống tạo thành khu hệ vi sinh vật bình thường, hay còn gọi là vi khuẩn chí bình thường, không gây bệnh, đã thiết lập được sự cân bằng với ký chủ nên cả hai bên tồn tại và phát triển một cách cùng có lợi. Vi sinh vật gây bệnh (mầm bệnh) cũng có thể gây bệnh ẩn tính hoặc nhiều khi bệnh trải qua không thấy có biểu hiện gì. Vì vậy, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan cho việc xác định mầm bệnh. Koch, khi nghiên cứu bệnh lao đã đề ra bốn nguyên tắc xác định mầm bệnh (định đề Koch). Những nguyên tắc này là 1) vi sinh vật gây bệnh nhất định phân lập được từ tất cả các trường hợp bệnh và phân bố của nó trong cơ thể nhất trí với bệnh biến, 2) có thể bồi dưỡng được vi sinh vật đó dưới dạng lứa cấy thuần khiết trong ống nghiệm, 3) nhất định gây bệnh thực nghiệm được với vi sinh vật gây bệnh đó ở động vật mẫn cảm và 4) từ động vật cảm nhiễm thực nghiệm lại có thể phân lập được vi sinh vật đó. Những nguyên tắc của Koch đã đóng vai trò to lớn trong quá trình phát hiện mầm bệnh truyền nhiễm, nhưng từ cuối thế kỷ XIX, càng ngày người ta càng thấy nhiều vi sinh vật là nguyên nhân ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thú y phòng bênh vật nuôi chăm sóc vật nuôi bênh truyền nhiễm giáo trình thú yTài liệu liên quan:
-
Đề cương ôn thi hết học phần: Bệnh nội khoa thú y 1
36 trang 115 0 0 -
88 trang 88 0 0
-
Bài giảng Nhiễm HIV: Điều gì bác sỹ đa khoa cần biết? - Howard Libman, M.D
48 trang 80 0 0 -
143 trang 54 0 0
-
Hướng dẫn phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ (Tái bản lần thứ 3): Phần 2
49 trang 42 0 0 -
22 trang 39 0 0
-
Tài liệu Truyền nhiễm Y5 - ĐH Y Hà Nội
104 trang 38 0 0 -
34 trang 37 1 0
-
Đề cương chi tiết học phần: Bệnh ở chó mèo
6 trang 34 0 0 -
5 trang 34 0 0