Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p3
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 190.21 KB
Lượt xem: 28
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Người mua DR có quyền bầu cử và nhận cổ tức khi được công bố, nhưng họ không có đặc quyền mua trước cổ phần quyền ưu tiên/preemptive right. Cổ tức được gởi vào ngân hàng giám hộ, vì đó là chủ sở hữu đăng ký sở hữu danh nghĩa. Ngân hàng giám hộ gom tất cả các món cổ tức lại, chuyển đổi các khoản thanh toán đó thành nội tệ đối với các ADR là USD cho các chủ sở hữu thụ hưởng trong nước và giữ lại các khoản trả thuế cho nước ngoài, nếu có....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p3 Người mua DR có quyền bầu cử và nhận cổ tức khi được công bố, nhưng họ không có đặc quyền mua trước cổ phần quyền ưu tiên/preemptive right. Cổ tức được gởi vào ngân hàng giám hộ, vì đó là chủ sở hữu đăng ký sở hữu danh nghĩa. Ngân hàng giám hộ gom tất cả các món cổ tức lại, chuyển đổi các khoản thanh toán đó thành nội tệ đối với các ADR là USD cho các chủ sở hữu thụ hưởng trong nước và giữ lại các khoản trả thuế cho nước ngoài, nếu có. Khi ngân hàng nhận được các đặc quyền mua rights và cam kết bán warrants từ nhà phát hành gốc, họ sẽ bán những sản phẩm đó đi tại thị trường chính quốc gia của nhà phát hành và phân phối thu nhập đó lại bằng tiền mặt cho những người sở hữu thụ hưởng DR. Giao nhận chứng khoán gốc ngoại quốc: Những người mua DR, dựa theo những điều kiện đã được giao kết, có quyền hoán đổi các chứng chỉ DR DR certificates để lấy cổ phần thực mà các chứng chỉ đó đại diện. Theo luật lệ của Mỹ, nếu tổ chức phát hành tạo ra các ADR bằng cách ký thác cổ phần gốc vào một ngân hàng giám hộ và đồng ý thực hành đúng theo các yêu cầu về thủ tục lập chứng từ và báo cáo với Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước SEC thì loại ADR đó được mệnh danh là loại ADR có bảo lãnh. Còn khi một ngân hàng mua các cổ phần ngoại quốc để tạo ra các ADR và chỉ lưu ký theo thủ tục nước ngoài với một ngân hàng giám hộ thôi thì được gọi là ADR không có bảo lãnh unsponsored ADR. Trái phiếu không lãi suất Thông thường, hễ nhắc đến trái phiếu người ta liên tưởng ngay đến món tiền lãi sẽ nhận được định kỳ. Thuật ngữ trong tiếng Anh gọi các món tiền lãi đó là 'coupon'. Theo thông lệ được nhiều nước áp dụng thì các trái phiếu coupon coupon bond nhận lãi mỗi sáu tháng một lần. Tuy nhiên, trong thị trường tài chánh và chứng khoán còn có các loại trái phiếu không nhận lãi. Các sản phẩm đặc biệt này, gọi là zéro- coupon bond, dù có những đặc điểm riêng nhưng không xa lạ, lại hữu ích trong một bối cảnh cần đa dạng mà bất cứ thị trường nào cũng có thể tham khảo áp dụng. Trái phiếu không nhận lãi là loại không trả lãi định kỳ cho người sở hữu. Bù lại, chúng được phát hành ở một mức có giá trị đầu tư khởi điểm thấp hơn mệnh giá. Người đầu tư mua và sở hữu trái phiếu xem như đã được hưởng một tỉ lệ chiết khấu, giá trị đầu tư đó theo thời gian tăng dần, tiệm cận và đạt tới mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn. Nói theo ngôn ngữ tài chánh thì giá phát hành trái phiếu là một khoản đầu tư hiện tại present value, mệnh giá trái phiếu là giá trị tương lai future value, khoản bồi đắp dần được tính theo cách xác định lãi kép và quá trình đó thuật ngữ gọi là accretion, ta tạm gọi đó là khoản bồi vốn, có thể được tính hằng năm nếu có yêu cầu, nhưng thường là chỉ để phục vụ cho mục đích tính thuế. Như vậy, thu nhập mà người sở hữu trái phiếu loại này có được chủ yếu là sự gia tăng từ khoản bồi vốn. Tuy nhiên, điều đó lại không có nghĩa là giá của chúng sẽ ổn định. Ngược lại, thực tế tại các thị trường chứng khoán có mua bán sản phẩm này, thì trái phiếu không nhận lãi có giá cả biến động nhiều. Ở Mỹ, đây là loại trái phiếu có thể được hoãn thuế, tạo cho nhà đầu tư có thêm một công cụ chọn lựa. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng có thể hữu ích cho những cân nhắc về quản trị tài chánh hơn là một sản phẩm dành cho các mục đích đầu tư bình thường. Trái phiếu không nhận lãi thường được bán với một chiết khấu dưới mệnh giá khá sâu. Thu nhập đối với người mua loại zéro- coupon bond này dù rất dễ thấy ở khoản chênh lệch giữa giá phát hành đã chiết khấu và giá ghi trên mặt trái phiếu mệnh giá face value lúc đáo hạn, nhưng thực tế đó chưa cho người đầu tư một khái niệm khi cần so sánh. Do đó, nó thường được tính ra một lãi suất tương đương để ta dễ hình dung hơn và chọn lựa. Cách tính toán như vậy có thể thực hiện tương tự như cách tính mà các ngân hàng áp dụng trong chiết khấu bank- discount basis, bằng cách lấy chênh lệch chiết khấu chia cho giá trị sau khi chiết khấu, rồi quy ra lãi suất năm. Để minh hoạ đơn giản, ta có thể lấy ví dụ một trái phiếu không nhận lãi có mệnh giá 1.000.000đ, đáo hạn 5 năm và được bán với giá 500.000đ khoản chiết khấu là 500.000đ thì lãi suất tương đương đó là: 1.000.000đ - 500.000đ / 1.000.000đ = 5% 5 năm Nhưng nếu tính theo hiệu quả đầu tư, thực tế người đầu tư chỉ bỏ ra có 500.000đ, cho nên khoản chênh lệch thu nhập dựa trên giá trị chiết khấu 500.000đ sẽ được so sánh với vốn đầu tư trường hợp này cũng là 500.000đ ta có lãi suất trái phiếu tương đương coupon- equivalent rate là: 1.000.000đ - 500.000đ / 500.000đ = 100% 5 năm Để có một nhận dạng đầy đủ hơn, cần biết rằng trong thị trường tài chính và chứng khoán còn có các sản phẩm tương tự nhưng không được gọi là zéro- coupon bond, thường là loại dưới một năm, mà người ta gọi bằng những tên khác nhau trong thị trường vốn ngắn hạn money market. Điển hình cho loại này là loại giấy nợ kho bạc Mỹ T- bill. Giới chuyên môn gọi đây là chứng khoán chiết khấu discount securities hay chứng khoán không chịu lãi non- interest bearing securities. Trong tương lai chắc rằng tại thị trường Việt Nam rồi cũng sẽ có những sản phẩm như vậy. Theo kỹ thuật chào bán trên thị trường chứng khoán, những sản phẩm đó cũng đ ược nêu giá bằng phần trăm % chiết khấu. Đây là cách giúp người đầu tư đối chiếu tham khảo nhanh và cần thiết cho một thị trường đồng bộ. Nhưng nếu không nắm vững ta lại dễ bị nhầm lẫn khi mới tiếp cận những sản phẩm này, dẫn đến phán đoán sai lệnh hoặc có thể bối rối. Lấy một ví dụ để minh hoạ. Một giấy nợ kho bạc trị giá 1.000.000đ đáo hạn 91 ngày, bán theo suất chiết khấu và có giá bán theo số tuyệt đối là 975.000đ. Nhưng theo cách yết giá trên TTCK ta có thể nhận được thông tin đại loại như sau: '…đáo hạn tháng 9, thu vào 9,99%, bán ra 9,89%' Cần lưu ý giá thu vào bid và bán ra ask/offer ở đây là cách gọi theo nhà buôn chứng khoán, vì giống như thị trường vàng ở ta, khi diễn đạt 'giá mua, giá bán' luôn phải ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p3 Người mua DR có quyền bầu cử và nhận cổ tức khi được công bố, nhưng họ không có đặc quyền mua trước cổ phần quyền ưu tiên/preemptive right. Cổ tức được gởi vào ngân hàng giám hộ, vì đó là chủ sở hữu đăng ký sở hữu danh nghĩa. Ngân hàng giám hộ gom tất cả các món cổ tức lại, chuyển đổi các khoản thanh toán đó thành nội tệ đối với các ADR là USD cho các chủ sở hữu thụ hưởng trong nước và giữ lại các khoản trả thuế cho nước ngoài, nếu có. Khi ngân hàng nhận được các đặc quyền mua rights và cam kết bán warrants từ nhà phát hành gốc, họ sẽ bán những sản phẩm đó đi tại thị trường chính quốc gia của nhà phát hành và phân phối thu nhập đó lại bằng tiền mặt cho những người sở hữu thụ hưởng DR. Giao nhận chứng khoán gốc ngoại quốc: Những người mua DR, dựa theo những điều kiện đã được giao kết, có quyền hoán đổi các chứng chỉ DR DR certificates để lấy cổ phần thực mà các chứng chỉ đó đại diện. Theo luật lệ của Mỹ, nếu tổ chức phát hành tạo ra các ADR bằng cách ký thác cổ phần gốc vào một ngân hàng giám hộ và đồng ý thực hành đúng theo các yêu cầu về thủ tục lập chứng từ và báo cáo với Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước SEC thì loại ADR đó được mệnh danh là loại ADR có bảo lãnh. Còn khi một ngân hàng mua các cổ phần ngoại quốc để tạo ra các ADR và chỉ lưu ký theo thủ tục nước ngoài với một ngân hàng giám hộ thôi thì được gọi là ADR không có bảo lãnh unsponsored ADR. Trái phiếu không lãi suất Thông thường, hễ nhắc đến trái phiếu người ta liên tưởng ngay đến món tiền lãi sẽ nhận được định kỳ. Thuật ngữ trong tiếng Anh gọi các món tiền lãi đó là 'coupon'. Theo thông lệ được nhiều nước áp dụng thì các trái phiếu coupon coupon bond nhận lãi mỗi sáu tháng một lần. Tuy nhiên, trong thị trường tài chánh và chứng khoán còn có các loại trái phiếu không nhận lãi. Các sản phẩm đặc biệt này, gọi là zéro- coupon bond, dù có những đặc điểm riêng nhưng không xa lạ, lại hữu ích trong một bối cảnh cần đa dạng mà bất cứ thị trường nào cũng có thể tham khảo áp dụng. Trái phiếu không nhận lãi là loại không trả lãi định kỳ cho người sở hữu. Bù lại, chúng được phát hành ở một mức có giá trị đầu tư khởi điểm thấp hơn mệnh giá. Người đầu tư mua và sở hữu trái phiếu xem như đã được hưởng một tỉ lệ chiết khấu, giá trị đầu tư đó theo thời gian tăng dần, tiệm cận và đạt tới mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn. Nói theo ngôn ngữ tài chánh thì giá phát hành trái phiếu là một khoản đầu tư hiện tại present value, mệnh giá trái phiếu là giá trị tương lai future value, khoản bồi đắp dần được tính theo cách xác định lãi kép và quá trình đó thuật ngữ gọi là accretion, ta tạm gọi đó là khoản bồi vốn, có thể được tính hằng năm nếu có yêu cầu, nhưng thường là chỉ để phục vụ cho mục đích tính thuế. Như vậy, thu nhập mà người sở hữu trái phiếu loại này có được chủ yếu là sự gia tăng từ khoản bồi vốn. Tuy nhiên, điều đó lại không có nghĩa là giá của chúng sẽ ổn định. Ngược lại, thực tế tại các thị trường chứng khoán có mua bán sản phẩm này, thì trái phiếu không nhận lãi có giá cả biến động nhiều. Ở Mỹ, đây là loại trái phiếu có thể được hoãn thuế, tạo cho nhà đầu tư có thêm một công cụ chọn lựa. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng có thể hữu ích cho những cân nhắc về quản trị tài chánh hơn là một sản phẩm dành cho các mục đích đầu tư bình thường. Trái phiếu không nhận lãi thường được bán với một chiết khấu dưới mệnh giá khá sâu. Thu nhập đối với người mua loại zéro- coupon bond này dù rất dễ thấy ở khoản chênh lệch giữa giá phát hành đã chiết khấu và giá ghi trên mặt trái phiếu mệnh giá face value lúc đáo hạn, nhưng thực tế đó chưa cho người đầu tư một khái niệm khi cần so sánh. Do đó, nó thường được tính ra một lãi suất tương đương để ta dễ hình dung hơn và chọn lựa. Cách tính toán như vậy có thể thực hiện tương tự như cách tính mà các ngân hàng áp dụng trong chiết khấu bank- discount basis, bằng cách lấy chênh lệch chiết khấu chia cho giá trị sau khi chiết khấu, rồi quy ra lãi suất năm. Để minh hoạ đơn giản, ta có thể lấy ví dụ một trái phiếu không nhận lãi có mệnh giá 1.000.000đ, đáo hạn 5 năm và được bán với giá 500.000đ khoản chiết khấu là 500.000đ thì lãi suất tương đương đó là: 1.000.000đ - 500.000đ / 1.000.000đ = 5% 5 năm Nhưng nếu tính theo hiệu quả đầu tư, thực tế người đầu tư chỉ bỏ ra có 500.000đ, cho nên khoản chênh lệch thu nhập dựa trên giá trị chiết khấu 500.000đ sẽ được so sánh với vốn đầu tư trường hợp này cũng là 500.000đ ta có lãi suất trái phiếu tương đương coupon- equivalent rate là: 1.000.000đ - 500.000đ / 500.000đ = 100% 5 năm Để có một nhận dạng đầy đủ hơn, cần biết rằng trong thị trường tài chính và chứng khoán còn có các sản phẩm tương tự nhưng không được gọi là zéro- coupon bond, thường là loại dưới một năm, mà người ta gọi bằng những tên khác nhau trong thị trường vốn ngắn hạn money market. Điển hình cho loại này là loại giấy nợ kho bạc Mỹ T- bill. Giới chuyên môn gọi đây là chứng khoán chiết khấu discount securities hay chứng khoán không chịu lãi non- interest bearing securities. Trong tương lai chắc rằng tại thị trường Việt Nam rồi cũng sẽ có những sản phẩm như vậy. Theo kỹ thuật chào bán trên thị trường chứng khoán, những sản phẩm đó cũng đ ược nêu giá bằng phần trăm % chiết khấu. Đây là cách giúp người đầu tư đối chiếu tham khảo nhanh và cần thiết cho một thị trường đồng bộ. Nhưng nếu không nắm vững ta lại dễ bị nhầm lẫn khi mới tiếp cận những sản phẩm này, dẫn đến phán đoán sai lệnh hoặc có thể bối rối. Lấy một ví dụ để minh hoạ. Một giấy nợ kho bạc trị giá 1.000.000đ đáo hạn 91 ngày, bán theo suất chiết khấu và có giá bán theo số tuyệt đối là 975.000đ. Nhưng theo cách yết giá trên TTCK ta có thể nhận được thông tin đại loại như sau: '…đáo hạn tháng 9, thu vào 9,99%, bán ra 9,89%' Cần lưu ý giá thu vào bid và bán ra ask/offer ở đây là cách gọi theo nhà buôn chứng khoán, vì giống như thị trường vàng ở ta, khi diễn đạt 'giá mua, giá bán' luôn phải ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo trình kế toán luận văn kế toán phương pháp kế toán kỹ thuật báo cáo kỹ năng báo cáoGợi ý tài liệu liên quan:
-
10 trang 368 0 0
-
72 trang 245 0 0
-
Bài giảng Kế toán ngân hàng: Kế toán nghiệp vụ huy động vốn - Lương Xuân Minh (p2)
5 trang 202 0 0 -
Đề thi tốt nghiệp môn tiền tệ ngân hàng
11 trang 196 0 0 -
HUA Giáo trình nguyên lí kế toán - Chương 7
43 trang 154 0 0 -
báo cáo thực tập công ty than hồng thái
97 trang 151 0 0 -
bài tập và bài giải lý thuyết hạch toán kế toán
15 trang 125 0 0 -
Báo cáo: Tổ chức bộ máy kế toán và hệ thống kế toán tại Công ty TNHH Hóa Mỹ Phẩm Hòa Hợp
33 trang 120 0 0 -
Báo cáo thực tập: Kế toán tài sản cố định tại công ty Cổ Phần Đầu Tư Và Thương Mại Bách Gia
70 trang 112 0 0 -
112 trang 105 0 0