Thông tin tài liệu:
b. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất (Best efforts): Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò đại lí phát hành là tổ chức có uy tín, thị trường đang có nhu cầu đầu tư cao. c. Bảo lãnh tất cả hoặc không (All or None offring AON): Là phương thức tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán trọn đợt phát hành nếu không bán được hết họ sẽ huỷ bỏ đợt phát hành đó. Với cam kết AON tổ chức bảo lãnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình kiến thức dùng trong kinh doanh chứng khoán - Forum VCU (p6)
b. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất (Best efforts): Là phương thức bảo lãnh mà theo
đó tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò đại lí phát hành là tổ chức có uy tín, thị trường đang có
nhu cầu đầu tư cao.
c. Bảo lãnh tất cả hoặc không (All or None offring AON): Là phương thức tổ chức
phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán trọn đợt phát hành nếu không
bán được hết họ sẽ huỷ bỏ đợt phát hành đó.
Với cam kết AON tổ chức bảo lãnh phải hết sức cố gắng nêu họ không muốn bị thiệt
hại về kinh tế (mất phí bảo lãnh…) và giảm sút về uy tín (do đợt phát hành bị huỷ bỏ). Đối
với tổ chức phát hành họ có thể định liệu được lượng vốn huy động của mình qua đợt phát
hành.
Như vậy, để nhận được hoa hồng bảo lãnh tổ chức bảo lãnh phải bán được ít nhất số
đã cam kết. Rủi ro của phương thức bảo lãnh được san sẻ cho cả hai bên, nếu không bán
được trên mức tối hiểu tổ chức phát hành không huy động được vốn còn tổ chức bảo lãnh
không thu được hoa hồng bảo lãnh trong khi vẫn phải bỏ ra chi phí để thực hiện toàn bộ
các khâu của quá trình bảo lãnh.
d. Bảo lãnh theo phương thức tổi thiểu - tối đa (Mini – max commitment): Là
phương thức trung gian pha trộn giữa cam kết chắc chắn và cố gắng cao nhất. Theo phương
thức này, có hai lượng chứng khoán cần xác lập, đó là: lượng sàn (Floor amount) và lượng
trần (ceiling amount).
Tổ chức phát hành đưa ra lượng trần là lượng chứng khoán mà họ muốn bán. Tổ
chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải xác lập được lượng sàn và lượng chứng
khoán họ có thể cam kết chắc chắn đồng thời phải cố gắng tối đa để bán đến lượng trần.
Nếu lượng chứng khoán bán ra thấp hơn lượng sàn thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị
huỷ bỏ, tổ chức bảo lãnh không nhận được bất cức một khoản hoa hồng nào. Qua lượng
sàn mà mình xác lập tổ chức bảo lãnh phát hành g iúp tổ chức phát hành dữ liệu được
khoản vốn tối thiểu huy động được.
e. Bảo lãnh theo phương thức dự phòng (stand – by commitment): Đây là phương
thức bảo lãnh được áp dụng khi tổ chức phát hành là công ty đại chúng phát hành thêm cổ
phiếu htông qua hình thức phát hành đặc quyền mua trước (Ringhts offering) cho cổ đông
hiện hữu. Có thể có một số cổ đông hiện hữu không mua thêm cổ phần nữa do thiếu vốn,
do muốn phân tán rủi ro…. Do vậy tổ chức phát hành cần có một tổ chức BLPH dự phòng
sẵn sàng đứng ra mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành nhữn cố
phiếu để bán ra công chúng.
Tổ chức bảo lãnh chỉ nhận được hoa hồng bảo lãnh khi tổ chúc phát hành không bán
được hết chứng khoán , khoản thu nhập này tất nhiêu không nhiều như trường hợp phương
thức bảo đảm chắc chắn song rủi ro cũng thấp hơn do đã hạn chết trách nhiệm của tổ chức
bảo lãnh. Khó khăn mà tổ chức bảo lãnh cso thể gặp phải là thị trường sẽ e ngại khi cổ
đông cũ không mua hết cổ phiếu mới vì đó có thẻ là dấu hiệu để các nhà đàu tư khác cho
rằng đầu tư vào công ty đó kém tính hấp dẫn. Do vậy phần phiếu còn lại ít, song khó bán
trên thị trường trong khi hoa hồng bảo lãnh thu được lại không cao.
Tóm lại, cho dùng là phương th ức bảo lãnh nào thì tổ chức phát hành có trách nhiệm
thông báo đầy đủ và chính xác các thông tin quan trọng về tổ chức phát hành cho tổ chức
bảo lãnh, tổ chức phát hành sẽ phải bồi dưỡng cho tổ chức bảo lãnh khi các thông tin h ọ
cung cấp trong bản đăng ký phát hành và bản cáo bạch thiếu hoặc không trung thực…
Ngược lại, nếu tổ chức làm sai lệch hoặc thiếu các thông tin trong bản đăng ký và bản cáo
bạch thì tổ chức bảo lãnh cũng phải bồi thường cho tổ chức phát hành. Tuy nhiên, Trách
nhiệm bồi thường chỉ giới hạnh ở những sai sót.
Tổ chức bảo lãnh không chỉ có trách nhiệm trong việc phân phối chứng khoán, đả m
boả đợt phát hành thành công, mà ngay từ khâu tư vấn, tổ chức bảo lãnh đóng vai trò đôc
lập như bên thứ ba để xem xét vốn huy động được và sử dụng có hiệu quả không, có làm
gia tăng lười nhuận cho doanh nghiệp và làm doanh nghiệp có thể phát triển vượt bậc
không. Muốn vậy tổ chức bảo lãnh cần là ngời biết gạt bỏ mối lợi từ hoa hồng bảo lãnh để
có các đánh giá, thẩm định đứng đắn về dự án đầu tư của doanh nghiệp, khuân khách hàng
từ bỏ các dự án không hiệu quả, hoặc cảnh báo khách hàng về các rủi ro, nguy cơ có thể
xảy ra để khách hàng cân nhắc kỹ lưỡng.
4.4. Qui trình bảo lãnh phát hành CK
Qui trình bảo lãnh phát hành chứng khoán bao gồm các bước chủ yếu sau:
Bước 1: Phân tích, đánh giá khản năng phát hành chứng khoán
Về mặt pháp lý, trách nhiệm của tổ chức bảo lãnh chỉ phát sinh sau khi hợp đồng
bảo lãnh được ký kết. Những trên thực tế, đẻ chủ dộng có được hợp dộng bảo lãnh, tổ chức
bảo lãnh phải phân tích, đánh giá khẳ năng phát hành của tổ chức phát hành trước khi ký
kết hợp đồng. Thông thường, tổ chức bảo lãnh tìm hiểu các công ty có nhu cầu huy động
vốn, nhất là các công ty niêm yết trên sở giao dịch, ...