Thông tin tài liệu:
CHƯƠNG 2 HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANHI. HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH1Khái niệm, đặc điểm của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh1.1. Khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) được nhìn nhận là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình - Luật cạnh tranh- chương 2 CHƯƠNG 2 HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH I. HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 1Khái niệm, đặc điểm của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 1.1. Khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) được nhìn nhậnlà sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sứcép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đốithủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa Cartel là một thỏathuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hàng cóliên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác50. Khoản 1 Điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanhnghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động phối hợp có khảnăng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên và có mục đíchhoặc hệ quả phản cạnh tranh. Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm màsử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranhbao gồm: thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ;thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán, hàng hóa,dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triểnkỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuậnáp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịchvụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếpđến đối tượng của hợp đồng; thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệpkhác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trườngnhững doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; thông đồng để một hoặccác bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ51.Việc không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các thỏa thuận cụ thể đã không gây nênnhững tranh luận cần thiết về hình thức và bản chất pháp lý của thỏa thuận hạn chếcạnh tranh. Theo đó, chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 Luật Cạnh tranh mớibị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trên thực tế, thoả thuận giữa các doanh nghiệp diễn ra ở nhiều công đoạn khácnhau của quá trình sản xuất, phân phối. Do đó, có nhiều dạng biểu hiện khác nhaucủa thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: thỏa thuận giữa những người bán với nhau (ví dụ Kh Walter Goode, sđd, tr 47. (50) Điều 8 Luật Cạnh tranh. (51) 74như thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường...); thỏa thuận giữa nhữngngười mua; thỏa thuận trong đấu thầu. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp thuộc nhữngkhâu khác nhau của quá trình kinh doanh; - Thỏa thuận theo chiều ngang là những thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanhtrong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ giữa nhữngngười bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với nhau); - Thỏa thuận theo chiều dọc là thỏa thuận giữa những doanh nghiệp ở các côngđoạn sản xuất khác nhau. 1.2. Những đặc trưng của các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong thực tế thị trường nội dung các hành vi thỏa thuận cũng rất đa dạng, không thểdự liệu một cách tuyệt đối, đều mang tính tương đối và luôn được bổ sung cùng với sựsáng tạo của người kinh doanh. Các thỏa thuận có thể hướng đến sự thống nhất về giácả của hàng hoá, dịch vụ; có thể là sự thống nhất trong việc phân chia thị trường, phânchia khách hàng; trong chiến lược marketing; thống nhất trong hành động để tiêu diệtđối thủ hoặc phát triển khoa học kỹ thuật.v.v. Như vậy, dựa vào khái niệm mà kinh tế học đưa ra và những thỏa thuận hạn chế cạnhtranh được quy định trong Luật Cạnh tranh, có thể nhìn nhận và phân tích chúng bằng3 dấu hiệu sau đây: a. Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủcạnh tranh của nhau Để xác định dấu hiệu này, phải chứng minh được những điểm sau đây: - Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan; - Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những ngườiliên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinhdoanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Những hành động thống nhất củatổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc của các công ty mẹ, con, không đượcpháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên chodù bao gồm nhiều thành viên cũng chỉ là một chủ thể thống ...