Danh mục

Giáo trình - Luật cạnh tranh- chương 4

Số trang: 25      Loại file: pdf      Dung lượng: 184.83 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

kinh tế, mọi doanh nghiệp có quyền lực thị trường kể cả các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên hay độc quyền Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa cho phép cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh mà Luật Cạnh tranh chưa quy định. Do đó, căn cứ pháp lý để kết luận về việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ chỉ là những quy định của Luật Cạnh tranh. Trong hệ thống pháp luật hiện hành, có một số văn bản pháp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình - Luật cạnh tranh- chương 4kinh tế, mọi doanh nghiệp có quyền lực thị trường kể cả các doanh nghiệp độc quyềntự nhiên hay độc quyền Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa cho phép cơquan có thẩm quyền xử lý những hành vi gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh mà LuậtCạnh tranh chưa quy định. Do đó, căn cứ pháp lý để kết luận về việc thực hiện hànhvi hạn chế cạnh tranh sẽ chỉ là những quy định của Luật Cạnh tranh. Trong hệ thốngpháp luật hiện hành, có một số văn bản pháp luật ghi nhận về hành vi hạn chế cạnhtranh của các tập đoàn kinh tế độc quyền hoặc thống lĩnh như pháp luật về điện lực,pháp luật về bưu chính viễn thông, pháp luật về hàng không.... Tuy nhiên, khoản 1 Điều5 Luật Cạnh tranh lại đặt ra một nguyên tắc trong trường hợp có sự khác nhau giữa quyđịnh của Luật này với các quy định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnhtranh không lành mạnh thì áp dụng quy định của Luật này. Như vậy, nếu có sự tươngđồng về số lượng hành vi và dấu hiệu pháp lý của từng hành vi giữa Luật Cạnh tranhvà các văn bản pháp luật kể trên thì không phát sinh những tranh cãi về việc áp dụngpháp luật. Tuy nhiên, nếu các văn bản pháp luật trên quy định về một, mối số hành vihạn chế cạnh tranh mà Luật Cạnh tranh không quy định và ngược lại hoặc có sự khácnhau về dấu hiệu pháp lý của hành vi thì giải pháp được lựa chọn phải là áp dụng LuậtCạnh tranh. - Không áp dụng cơ chế loại trừ đối với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị tríđộc quyền thị trường để hạn chế cạnh tranh. Đây là điểm khác biệt về mặt kỹ thuật lậppháp của Việt Nam so với Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát triển liênhiệp quốc cũng như Luật về kiểm soát độc quyền của nhiều nước khác. Trong phápluật cạnh tranh của nhiều quốc gia, và trong Luật mẫu về cạnh tranh đều đưa ra cáctrường hợp được miễn trừ trách nhiệm, ví dụ Mục III Chương IV Luật mẫu cạnh tranhcho phép miễn trừ đối với các hành vi lạm dụng nếu doanh nghiệp thông báo với cơquan có thẩm quyền trước khi thực hiện, và cơ quan này thấy hành vi phù hợp với mụctiêu của Luật đã đề ra; Điều 61.1 Luật Cạnh tranh Canađa quy định các trường hợpngoại lệ được miễn trừ trách nhiệm khi thực hiện hành vi định giá bán lại… Các nhà làmluật của những nước nói trên lập luận rằng hành vi lạm dụng ở những tình huống cụ thểnào đó là phù hợp với sự phát triển của đời sống kinh doanh, rằng các doanh nghiệpcó quyền bảo vệ lợi ích của mình nếu điều đó không xâm hại đến quyền tự do kinhdoanh và lợi ích chính đáng của bất cứ ai. Cách thức mà Luật Cạnh tranh của chúng tađưa ra cho thấy thái độ nghiêm khắc của nhà làm luật đối với hành vi lạm dụng121. Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn sẽ đặt ra cho pháp luật và cho cơ chế thực thi là,pháp luật sẽ phải chi tiết hơn trong việc quy định về hành vi theo hướng sau đây: - Phải đưa ra được những căn cứ xác định hành vi chi tiết hơn để không quy tráchnhiệm oan cho những trường hợp về hình thức là vi phạm nhưng về bản chất là có thểchấp nhận được (ví dụ các hành vi ấn định giá mua trong các trường hợp thị trường cóbiến động); - Phải lượng hoá các căn cứ đó bằng những dấu hiệu khách quan để trách sự tùytiện trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng. Vì lẽ đó mà cáccăn cứ nhận dạng hành vi theo Luật Cạnh tranh có vẻ phức tạp hơn so với những quy Đối với tập trung kinh tế và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Luật (121) Cạnh tranh năm 2004 vẫn quy định các trường hợp miễn trừ.144định tương ứng trong pháp luật của các quốc gia khác như Canađa, Hoa Kỳ, HànQuốc.v.v. Ngoài ra, theo Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP trong ,những cơ sở nhận dạng hành vi lạm dụng có những căn cứ đã được lượng hoá như giáthành toàn bộ đã được lượng hoá bằng các chi phí cụ thể, sự bất hợp lý của giá bóc lộtv.v. cũng có một số những quy định chưa rõ hoặc còn là định tính, ví dụ như khả nănggây thiệt hại cho khách hàng của hành vi định giá bán lại tối thiểu, mức độ phân biệt đốixử trong các điều kiện thương mại giữa các khách hàng, khả năng ngăn cản đối thủ cạnhtranh mới của mức giá bán hàng hoá thấp, xác định tính chất không liên quan đến đốitượng của hợp đồng trong các điều kiện thương mại hay nghĩa vụ bị áp đặt v.v. Nhữngtồn tại nói trên có thể ảnh hưởng lớn đến hiệu quả áp dụng pháp luật nếu chúng khôngđược làm rõ trong các văn bản pháp luật. Mặt khác, việc điều tra thu thập thông tin vàphân tích thông tin để kết luận về hành vi vi phạm đòi hỏi phải được thực hiện bằng cácbiện pháp chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật cụ thể tùy theo từng vụ việc. Mặt khác, sự vậnđộng không ngừng của các quan hệ và các yếu tố kinh tế của thị trường, làm cho nhữngthông số kinh tế- kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh thường xuyên thay đổi, co dãn. Vìthế, việc thực thi pháp luật cạnh tranh đối với những vụ việc về hành ...

Tài liệu được xem nhiều: