Giáo trình Thương mại quốc tế: Phần 2 - PGS. TS. Nguyễn Xuân Thiên
Số trang: 139
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.95 MB
Lượt xem: 25
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nối tiếp phần 1, phần 2 của "Giáo trình Thương mại quốc tế" do PGS. TS. Nguyễn Xuân Thiên chủ biên có nội dung gồm 5 chương tiếp tục trình bày về: thuế quan - một công cụ hạn chế thương mại quốc tế, các hàng rào thương mại phi thuế quan và các khía cạnh kinh tế của chính sách thương mại, thương mại quốc tế và sự phát triển kinh tế,... Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Thương mại quốc tế: Phần 2 - PGS. TS. Nguyễn Xuân ThiênGiáo trình Thương mại Quốc tế - 113- CHƯƠNG 4 THUẾ QUAN – MỘT CÔNG CỤ HẠN CHẾ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Chương này giới thiệu về thuế quan (Tariff), một công cụ được sử dụng để hạn chế thương mại quốc tế và phân tích tác động của thuế quan tới nước có liên quan. Thực tế cho thấy các chính phủ các quốc gia thực sự không tôn trọng tự do thương mại, mặc dù buôn bán tự do là hình thức buôn bán hiệu quả và hợp lý nhất đối với người tiêu dùng. Các nhà hoạch định chính sách đã tạo ra những công cụ khác nhau để hạn chế sự tự do di chuyển hàng hóa và dịch vụ. Một công cụ quan trọng nhất và cổ điển nhất để hạn chế thương mại tự do và bảo hộ đối với sản xuất trong nước là thuế quan. Thuế quan làm tăng giá hàngnhập khẩu và từ đó làm cho giá hàng nhập khẩu kém cạnh tranh hơn.4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ QUAN4.1.1. Khái niệm Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuế quan. Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, thuế quan là nghĩa vụ nộp hoặc thuế đánh vào hàng hóa tại biên giới khi hàng hóa đi từ một lãnh thổ hải quan (thông thường là một nước) sang lãnh thổ hải quan khác. Hoặc theo Dominick Salvatore: “Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hóa khi nó được vận chuyển xuyên qua biên giới quốc gia”. Thuế quan là một biện pháp hay công cụ quan trọng nhất và mang tính cổ điển nhất để thực hiện chính sách thương mại và bảo hộ thị trường nội địa.4.1.2. Phân loại Thuế quan có thể được phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau. Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được chia thành hai loại: thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ. Gọi là thuế quan tài chính, bởi vì thông qua việc đánh thuế nhằm đem lại nguồn thu cho ngân sách. Gọi là thuế quan bảo hộ, bởi vì thông qua việc đánh thuế nhằm bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước. Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan được chia thành ba loại: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế quá cảnh. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa hoặc nguyên vật liệu ở thời điểm chúng rời lãnh thổ hải quan quốc gia. Những lý do để đánh thuế xuất khẩu là nhằm tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, đẩy mạnh hơn nữa việc Giáo trình Thương mại Quốc tế - 114-gia công hàng hóa trong nước, hình thành một chính sách đảm bảo rằng các nguyên vật liệu khan hiếm và cần thiết cho nền sản xuất trong nước phải được dự trữ ở mức tối đa cho công nghiệp nội địa. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào sản phẩm nhập khẩu tại biên giới. Thuế quá cảnh là thuế đánh vào hàng hóa khi đi qua lãnh thổ của một nước trunggian. Theo phương pháp tính thuế, thuế quan được chia thành ba loại: thuế quan tính theo số lượng (còn gọi là thuế đặc định - specific tariff), thuế quan tính theo giá trị (Advalorem tariff) và thuế quan hỗn hợp. Đại đa số các quốc gia sử dụng phương pháp thuế quan tính theo giá trị. Do nhiều nước ít đánh thuế vào hàng hóa xuất khẩu, hoặc nếu đánh thuế thì cũng đánh rất ít vào các sản phẩm xuất khẩu nên khi nói đến thuế quan là đồng nghĩa với thuế nhập khẩu.4.2. THUẾ NHẬP KHẨU4.2.1. Thuế đặc định Thuế được thể hiện bằng một khoản tiền cụ thể đánh vào một hàng hóa nhập khẩu cụ thể. Thuế đặc định là một loại thuế nhập khẩu quy định: một lượng tiền thuế cố định tính trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Ví dụ, thuế đặc định này có thể là 20đôla trên một tấn hàng hóa nhập khẩu. Tổng tiền bị đánh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tương ứng với số lượng đơn vị hàng hóa đưa vào quốc gia nhập khẩu và không tính theo giá cả hoặc giá trị của hàng nhập khẩu. Cơ quan thuế có thể dễ dàng thu thuế đặc định vì họ chỉ cần biết số lượng hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia, chứ không phải là một lượng tiền. Tuy nhiên, thuế đặc định cũng có một trở ngại khá lớn để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước, đó là vì giá trị bảo hộ tỷ lệ nghịch với giá của hàng nhập khẩu. Nếu giá nhập khẩu của nhà sản xuất nước ngoài là 5 đôla và thuế là 1 đôla trên một đơn vị, mức thuế này tương đư ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Thương mại quốc tế: Phần 2 - PGS. TS. Nguyễn Xuân ThiênGiáo trình Thương mại Quốc tế - 113- CHƯƠNG 4 THUẾ QUAN – MỘT CÔNG CỤ HẠN CHẾ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Chương này giới thiệu về thuế quan (Tariff), một công cụ được sử dụng để hạn chế thương mại quốc tế và phân tích tác động của thuế quan tới nước có liên quan. Thực tế cho thấy các chính phủ các quốc gia thực sự không tôn trọng tự do thương mại, mặc dù buôn bán tự do là hình thức buôn bán hiệu quả và hợp lý nhất đối với người tiêu dùng. Các nhà hoạch định chính sách đã tạo ra những công cụ khác nhau để hạn chế sự tự do di chuyển hàng hóa và dịch vụ. Một công cụ quan trọng nhất và cổ điển nhất để hạn chế thương mại tự do và bảo hộ đối với sản xuất trong nước là thuế quan. Thuế quan làm tăng giá hàngnhập khẩu và từ đó làm cho giá hàng nhập khẩu kém cạnh tranh hơn.4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ QUAN4.1.1. Khái niệm Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuế quan. Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, thuế quan là nghĩa vụ nộp hoặc thuế đánh vào hàng hóa tại biên giới khi hàng hóa đi từ một lãnh thổ hải quan (thông thường là một nước) sang lãnh thổ hải quan khác. Hoặc theo Dominick Salvatore: “Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hóa khi nó được vận chuyển xuyên qua biên giới quốc gia”. Thuế quan là một biện pháp hay công cụ quan trọng nhất và mang tính cổ điển nhất để thực hiện chính sách thương mại và bảo hộ thị trường nội địa.4.1.2. Phân loại Thuế quan có thể được phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau. Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được chia thành hai loại: thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ. Gọi là thuế quan tài chính, bởi vì thông qua việc đánh thuế nhằm đem lại nguồn thu cho ngân sách. Gọi là thuế quan bảo hộ, bởi vì thông qua việc đánh thuế nhằm bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước. Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan được chia thành ba loại: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế quá cảnh. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa hoặc nguyên vật liệu ở thời điểm chúng rời lãnh thổ hải quan quốc gia. Những lý do để đánh thuế xuất khẩu là nhằm tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, đẩy mạnh hơn nữa việc Giáo trình Thương mại Quốc tế - 114-gia công hàng hóa trong nước, hình thành một chính sách đảm bảo rằng các nguyên vật liệu khan hiếm và cần thiết cho nền sản xuất trong nước phải được dự trữ ở mức tối đa cho công nghiệp nội địa. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào sản phẩm nhập khẩu tại biên giới. Thuế quá cảnh là thuế đánh vào hàng hóa khi đi qua lãnh thổ của một nước trunggian. Theo phương pháp tính thuế, thuế quan được chia thành ba loại: thuế quan tính theo số lượng (còn gọi là thuế đặc định - specific tariff), thuế quan tính theo giá trị (Advalorem tariff) và thuế quan hỗn hợp. Đại đa số các quốc gia sử dụng phương pháp thuế quan tính theo giá trị. Do nhiều nước ít đánh thuế vào hàng hóa xuất khẩu, hoặc nếu đánh thuế thì cũng đánh rất ít vào các sản phẩm xuất khẩu nên khi nói đến thuế quan là đồng nghĩa với thuế nhập khẩu.4.2. THUẾ NHẬP KHẨU4.2.1. Thuế đặc định Thuế được thể hiện bằng một khoản tiền cụ thể đánh vào một hàng hóa nhập khẩu cụ thể. Thuế đặc định là một loại thuế nhập khẩu quy định: một lượng tiền thuế cố định tính trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Ví dụ, thuế đặc định này có thể là 20đôla trên một tấn hàng hóa nhập khẩu. Tổng tiền bị đánh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tương ứng với số lượng đơn vị hàng hóa đưa vào quốc gia nhập khẩu và không tính theo giá cả hoặc giá trị của hàng nhập khẩu. Cơ quan thuế có thể dễ dàng thu thuế đặc định vì họ chỉ cần biết số lượng hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia, chứ không phải là một lượng tiền. Tuy nhiên, thuế đặc định cũng có một trở ngại khá lớn để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước, đó là vì giá trị bảo hộ tỷ lệ nghịch với giá của hàng nhập khẩu. Nếu giá nhập khẩu của nhà sản xuất nước ngoài là 5 đôla và thuế là 1 đôla trên một đơn vị, mức thuế này tương đư ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo trình Thương mại quốc tế Thương mại quốc tế Hàng rào thương mại phi thuế quan Chính sách bảo hộ thương mại Lý thuyết thương mại Thương mại hàng hóaGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần 2): Phần 1
257 trang 403 6 0 -
4 trang 367 0 0
-
71 trang 228 1 0
-
Một số điều luật về Thương mại
52 trang 175 0 0 -
Một số hạn chế trong chính sách thuế
3 trang 173 0 0 -
14 trang 173 0 0
-
Giáo trình Quản trị xuất nhập khẩu: Phần 1 - GS. TS Đoàn Thị Hồng Vân
288 trang 167 0 0 -
trang 146 0 0
-
CÁC QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT VỀ TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
29 trang 135 0 0 -
Tiểu luận: Soạn thảo và thỏa thuận hợp đồng ngoại thương_Những phát sinh và cách giải quyết
14 trang 123 0 0