U xương hàm do răng là bệnh lý của các khối u phần xương vùng hàm mặt.Lần đầu tiên vào năm 1664: Scultet mô tả một u khu trú ở trong xương hàm. Tiếp theo có khá nhiều tác giả báo cáo về vấn đề này cả về lâm sàng và các phương pháp điều trị.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình U xương hàm do răng U xương hàm do răng1. ĐẠI CƯƠNG. • U xương hàm do răng là bệnh lý của các khối u phần xương vùng hàm mặt.1.1. Điểm tài liệu: • Lần đầu tiên vào năm 1664: Scultet mô tả một u khu trú ở trong xương hàm. Tiếp theo có khá nhiều tác giả báo cáo về vấn đề này cả về lâm sàng và các phương pháp điều trị. • Tuy nhiên các tác giả vẫn lẫn lộn giữa các khối u, nang xương hàm nguyên nhân do răng và không do răng. • Cho đến năm 1884 – 1887: Mollazza trình bày các khối u ở xương hàm nguyên nhân do răng. Cách trình bày này được đa số các tác giả thời kỳ đó công nhận. Năm 1910: Leriche và Cotte phân loại sâu hơn. Các khối u này bắt nguồn từ mầm răng với loại biểu mô hỗn hợp vừa biểu mô vừa liên kết. • Hai năm sau (1912), tác giả Coryllas đề nghị phân loại và gọi tất cả các khối u do răng là u men (Adamantiome).Năm 1912 – 1925 hai tác giả Delater và Bercher gọi chung các khối u xương hàm do răng là u phôi sản biểu mô liên kết. Cách gọi này nhấn mạnh đến bệnh sinh trong đó yếu tố biểu mô, yếu tố liên kết kích thích tạo nên u giữ vai trò chủ yếu. • Năm 1932 Bercher và Codwella tổng hợp các công trình nghiên cứu, kế thừa kinh nghiệm của các tác giả trong thời gian dài đã đề nghị phân loại các khối u, nang xương hàm do răng phải dựa vào đặc tính bệnh lý và cơ chế bệnh sinh. Tuy vậy trên thế giới cho đến nay vẫn chưa thống nhất về danh pháp, cơ chế bệnh sinh của các khối u loại này.1.2. Phân loại các khối u, nang xương hàm do răng theo Bercher và Codwella.1.2.1. Khối u viêm nhiễm và tăng sản: • Loại xơ biểu mô. o U hạt và nang chân răng (cuống răng). o U hạt và nang quanh răng trên răng sống. o Nang thân răng. • Loại liên kết. o U lợi xơ (Épulis fibreux). o U lợi huỷ cốt bào.1.2.2. Loạn sản phôi: • Loạn phôi đơn phát triển có giới hạn. o U men đặc tạo răng (Adamantiome). o U lợi bẩm sinh. • Loạn phôi phát triển không giới hạn: o U men thể nang. o Loạn phôi ung thư hoá.1.2.3. U răng (Dentom). • U răng ngoài răng. • U răng trong răng.2. Chẩn đoán các khối u xương hàm do răng. • Nhìn chung để chẩn đoán các khối u loại này tương đối dễ, đặc biệt khi bệnh cảnh lâm sàng đã rõ ràng. • Diễn biến của bệnh thường thầm lặng cả quá trình phát triển của u. Không đau tại chỗ, không ảnh hưởng toàn thân, không sốt và ít ảnh hưởng chức năng ăn nhai. Chỉ khi u nang bị bội nhiễm, có đường rò, ngách tiển đình bị phồng, xương bị phá huỷ nhiều mới ảnh hưởng, và lức này có khi bệnh nhân mới tới khám. Khi khám có thể thấy thiếu một răng, có răng chết hoặc mọc sai vị trí, kết hợp với XQ khi đó có chẩn đoán khá chính xác. • Để chẩn đoán u, thường chụp XQ chếch hàm, panorama, Blondeau, film cắn, có khi chỉ chụp philm một hoặc một nhóm răng khi nghĩ đến u hạt, nang cuống răng. • Thực tế lâm sàng thường gặp dạng u nang sau: Nang thân răng, u men thể nang và u men đặc tạo răng. Còn các loại u khác hiếm gặp.3. Một số u xương hàm do răng. • Để trình bày cụ thể chúng ta lần lượt mô tả các khối u sau: • U men thể nang. • U men đặc tạo răng. • Nang thân răng.U MEN THỂ NANG1. Đại cương. • U men thể nang là một thể hay gặp nhất trong u lành tính xương hàm nguyên nhân do răng, nó chiếm quá 50% các u lành tính khu trú xương hàm. • Là một u có nhiều tác giả nghiên cứu, thảo luận về GPBL, phân loại và điều trị. Riêng về tên gọi có rất nhiều tên gọi khác nhau, thống kê từ trước tới nay có trên 50 tên gọi với u này, thực chất u được phát triển từ tế bào tạo men răng hình sao (Amelolastome). • Đặc điểm của u. o Thường gặp ở tuổi thanh niên hay trung niên, tuy nhiên cũng có khi gặp ở tuổi thiếu niên và người già. o Đa số u khu trú ở thân xương hàm dưới. o Khi u ở giai đoạn cuối gây biến dạng mặt, có thể làm tự gẫy xương hàm dưới. o Chẩn đoán dựa vào XQ và lâm sàng là chủ yếu.2. Giải phẫu bệnh lý. • Đại thể: o U men có hình dáng đại thể thay đổi, có thể là một khối gồ ghề như chùm nho, đôi khi chắc và trắng nhạt, rải rác có những hốc chứa dịch trong hơi nhày o Trong các trường hợp khác, có khoang trở nên rất to, dạng nang, khối u có thể chỉ là một buồng có chứa các dịch khác nhau, hoặc trong, hoặc dạng gel hoặc nâu nhạt, ít nhiều chảy máu và biến đổi bởi các hiện tượng viêm o Trong các dạng một nang duy nhất, việc quan sát là tìm chỗ dày của thành nang để bọc lấy nang . Nhìn chung các răng ngầm bên cạnh u thường nằm ngoài nang và không dính vào màng nang, nhưng u cũng có thể có vỏ bọc. • Vi thể: o Các hình ảnh tế bào học được coi là điển hình của u men là tổ chức liên kết nằm kề với tế bào biểu mô, trong đó tế bào men là chủ yếu3. Bệnh sinh. • Cho đến nay cơ chế bệnh sinh của u men thể nang vẫn chưa được thống nhất và rõ ràng. Một số tác giả cho rằng, nụ răng thoái hoá mà thành, một số tác giả khác lại cho rằng do những mảnh thừa biểu mô Malassez tạo nên.4. Tiên lượng. • U men thể nang phát triển chậm từ vài năm đến hàng chục năm. Ở giai đoạn đầu không ảnh hưởng đến toàn thân, do vậy rất khó phát triển để điều trị sớm. • Nếu không được điều trị, để đến muộn hoặc giai đoạn cuối, u có thể dẫn đến tự gẫy xương hàm, nhiễm trùng và thực tế đã gặp có trường hợp thoái hoá ác tính. U hay tái phát khi điều trị phẫu thuật bảo tồn do nhiều nguyên nhân khác nhau.5. Lâm sàng. • Ở tuổi nào cũng gặp nhưng hay gặp ...