Viêm nhiễm vùng hàm mặt là bệnh thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hay gặp hơn cả là các loại viêm nhiễm không đặc hiệu. Bệnh xuất hiện và tiến triển theo mùa, mưa nóng ẩm (xuân - hạ) gặp nhiều hơn, mùa hanh khô (thu - đông) ít gặp hơn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Viêm nhiễm vùng hàm mặt
Viêm nhiễm vùng hàm mặt
1. ĐẠI CƯƠNG
• Viêm nhiễm vùng hàm mặt là bệnh thường gặp do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Hay gặp hơn cả là các loại viêm nhiễm không đặc hiệu. Bệnh xuất hiện
và tiến triển theo mùa, mưa nóng ẩm (xuân - hạ) gặp nhiều hơn, mùa hanh khô
(thu - đông) ít gặp hơn.
• Vùng hàm mặt có hệ thống mạch máu, thần kinh nuôi dưỡng phong phú, khi bị
viêm nhiễm tại chỗ có phản ứng sưng nề nhanh, đồng thời đây cũng là điều kiện
thuận lợi của cơ thể ngăn cản và chống nhiễm trùng lan tràn.
• Vùng hàm mặt liên quan chặt chẽ với sọ não, trực tiếp là nền sọ trước. Mạch
máu nuôi dưỡng vùng hàm mặt chủ yếu là các nhánh của động mạch cảnh ngoài
nhưng lại có vòng nối với động mạch cảnh trong qua động mạch gốc mắt trong.
Cho nên nhiễm trùng vùng hàm mặt dễ lan tràn lên nền sọ gây viêm não, màng
não. Đây là biến chứng nặng và rất nguy hiểm, có thể để lại những di chứng rất
nặng nề về thần kinh.
• Nhiễm trùng vùng hàm mặt tuy không phải là bệnh tối nguy hiểm, nhưng hay
có những biến chứng rất nặng nếu không được dự phòng và điều trị tích cực và
có hiệu quả. Những biến chứng thường gặp là:
o Viêm tấy lan tỏa rộng, tràn mủ xuống thấp, ra sau gây ngạt thở và nhiễm
trùng trung thất.
o Nhiễm trùng huyết.
Trong những năm gần đây, viêm nhiễm trùng vùng hàm mặt có xu hướng giảm cả về
số lượng và mức độ nặng của bệnh. Nguyên nhân chủ yếu do được dự phòng tốt và
điều trị sớm và tích cực của các tuyến. Mặt khác, do sự ra đời nhiều loại, nhiều thế hệ
kháng sinh mới có tác dụng rộng và chống nhiễm trùng mạnh, bệnh nhân tự mua và sử
dụng sớm nên đã ngăn chặn được nhiễm trùng lan tràn ở mặt.
2. VIÊM NHIỄM KHÔNG ĐẶC HIỆU VÙNG HÀM MẶT
• Viêm nhiễm không đặc hiệu vùng hàm mặt còn gọi là những viêm nhiễm thông
thường, do các loại vi khuẩn thông thường gây nên. Vi khuẩn thường gặp trong
viêm nhiễm vùng hàm mặt gồm có:
o Tụ cầu khuẩn vàng và trắng
o Liên cầu khuẩn tán huyết anpha, beta và cả không tan huyết, liên cầu
khuẩn gâmm
o Trực khuẩn perfringens, clostridium oedematiens, thoi xoắn khuẩn,,
o Não mô cầu.
• Đây là những loại vi khuẩn có thể gặp ở bất kỳ vết thương nào trên cơ thể.
Trong giai đoạn hiện nay, những vi khuẩn này có khả năng kháng thuốc rất
mạnh, những loại kháng sinh thông thường ít tác dụng, nên thường phải dùng
kháng sinh mạnh và phối hợp các loại kháng sinh mới đạt hiệu quả điều trị.
• Đường vào của vi khuẩn trong các loại viêm nhiễm thông thường vùng hàm
mặt gồm có:
o Qua da: những vết xây sát da do chấn thương, vết thương, nhiễm trùng
qua nang chân lông, tuyến bã.
o Từ những ổ nhiễm trùng liên quan đến răng và vùng quanh răng.
o Qua đường máu: gặp ở những nhiễm trùng sâu trong các cơ quan tổ
chức.
2.1. Viêm nhiễm phần mềm vùng hàm mặt.
2.1.1. Nguyên nhân.
Có thể chia ra hai loại nguyên nhân chính dẫn đến viêm nhiễm phần mềm vùng hàm
mặt.
2.1.1.1. Nguyên nhân do răng
• Đây là nguyên nhân chính trong tất cả các viêm nhiễm vùng hàm mặt.
o Nhiễm trùng vùng góc hàm dưới do biến chứng mọc răng số 8 (răng
khôn).
o Các ổ áp xe trong bệnh viêm quanh răng lan tràn vào tổ chức phần mềm
vùng quanh xương hàm.
o Viêm tủy, viêm quanh cuống (chóp chân răng).
2.1.1.2. Nguyên nhân không do răng.
• Do chấn thương, vết thương phần mềm.
• Do nhiễm trung nang lông, tuyến bã.
• Do viêm hạch bạch huyết áp xe hóa.
• Do bội nhiễm các nang vùng dưới hàm: nang giáp móng, nang khe mang.
• Do viêm, áp xe hóa tuyến nước bọt, viêm mủ khớp thái dương hàm lan tràn ra
tổ chức phần mềm xung quanh.
• Do viêm tai xương chũm xuất ngoại, viêm mủ amidal vỡ vào thành họng bên.
Tất cả những nguyên nhân trên sẽ gây viêm tấy lan tỏa hoặc áp xe khu trú, đều tạo nên
một bệnh cảnh lâm sàng của nhiễm trùng vùng hàm mặt. Những trường hợp do bội
nhiễm các khối u, các nang thì hình ảnh lâm sàng của viêm nhiễm trùng sẽ che lấp các
triệu chứng của các bệnh chính.
2.1.2. Bệnh cảnh lâm sàng chung.
2.1.2.1. Triệu chứng toàn thân.
• Sốt: tùy theo mức độ viêm nhiễm, tùy sức đề kháng và phản ứng của cơ thể mà
nhiệt độ từ 38-39oC, có khi lên đến 40oC kèm theo rét run từng cơn. Nếu sốt có
kèm theo rét run cần đề phòng có thể bị nhiễm trùng huyết. Sốt kèm theo mạch
nhanh, rối loạn nhịp tim.
• Thể trạng mệt mỏi đôi khi thần kinh ở trạng thái li bì, biểu hiện của nhiễm trùng
nhiễm độc nặng. Nếu có viêm não, màng não, có dấu hiệu màng não (+), rối
loạn ý thức không thường xuyên, dần dần đi vào hôn mê. Độ hôn mê được tính
bằng thang điểm Glasgow.
• Rối loạn chức năng ăn nhai, nuốt, chủ yếu do đau, có ...