Căn nhà ven hòn, tựa lưng vô vách núi, khuất sau ba hòn đá lớn. Trước mặt là rặng dừa cao ngất, tiếp nối bãi cát lan dài ra biển ngút ngàn sóng vỗ. Chếch về bên phải, không xa lắm, từ trong nhà có thể nhìn thấy, giếng nước cẩn đá xanh kiên cố, nước trong vắt gợn sóng lăn tăn, sát cạnh biển nhưng nước ngọt mát quanh năm. Trời chiều, mặt trời sà thấp đỏ lựng trên mặt biển. Bà già hơn trăm tuổi ngồi kể chuyện ở hàng hiên. Đứa cháu trai năm tuổi ngồi vọc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giếng vua Giếng vua TRUYỆN NGẮN CỦA LÊ VĂN THẢOCăn nhà ven hòn, tựa lưng vô vách núi, khuất sau ba hòn đá lớn. Trước mặt là rặng dừacao ngất, tiếp nối bãi cát lan dài ra biển ngút ngàn sóng vỗ. Chếch về bên phải, không xalắm, từ trong nhà có thể nhìn thấy, giếng nước cẩn đá xanh kiên cố, nước trong vắt gợnsóng lăn tăn, sát cạnh biển nhưng nước ngọt mát quanh năm.Trời chiều, mặt trời sà thấp đỏ lựng trên mặt biển. Bà già hơn trăm tuổi ngồi kể chuyện ởhàng hiên. Đứa cháu trai năm tuổi ngồi vọc cát trước mặt, đời chút chít thứ mấy bà quênmất. Đứa nhỏ đắp núi non thành quách gì đó, thỉnh thoảng ngẩng lên hỏi câu vu vơ, rồingó ra con chim nhảy choi choi trên bãi cát. Đứa nhỏ lắng nghe hay không bà không cần,cuộc sống phía trước của nó, không phải của bà.“Giếng nước kìa con!”, bà chỉ giếng nước, nói. “Con nhìn đi! Con thấy hàng ngày rồinhưng phải cứ nhìn. Đó là giếng nước ông cụ kỵ con để lại cho bà. Giờ nó là của các con,của đảo, không của riêng ai”.Bà là cô thôn nữ ở Cà Mau, bà kể. Mười lăm tuổi, chỉ biết cấy hái. Ông là vị vua đangbôn tẩu. Ông đi ngang nhìn thấy bà khen đẹp, kêu làm tỳ thiếp. Vậy là xong, không cóchuyện chịu hay không. Bà có một đêm chia tay với gia đình. Buồn vui lẫn lộn. Phải xanhà, ra đi không hẹn ngày về. Nhưng được làm vợ vua. Hôm sau bà được đưa xuống ghe,vô nằm trong khoang rèm che kín. Cả nhà khóc ròng như đưa tang. Bà cũng khóc, kỳ chohết nước mắt thì thôi. Ghe đi trên sông rạch rồi ra biển lớn, bà đoán vậy. Chỉ nghe tiếngmái chèo khua nước, sóng nhỏ rập rình rồi sóng lớn ầm ả. Cứ thế tiếp nối, những ngàybiển lặng rồi những ngày biển động. Có những lúc sóng lớn chiếc ghe nhồi lắc dữ dội, bàsay sóng nằm dật dựa không biết ngày đêm, trời tối sáng như thế nào.Một đêm giữa khuya, bà chợt nghe tiếng ông sát cạnh bên. Biển lặng, ghe ông cặp sát ghebà. Nhưng ông không sang. Ông đang quát tháo chuyện gì đó phía trước. “Giết hết chúngđi!”, tiếng ông quát. Bà đoán có chiếc ghe câu nào đó cản đường ông. Ông đang bôn tẩu,cần phải giữ bí mật. Hoặc ông cần ghe, cần lương thực. Hoặc đơn giản chỉ cần trút giậnlên ai đó. Bà ngồi chúi mình trong khoang ghe lắng nghe cuộc tàn sát bên ngoài. Từngthân người bị chặt ngang, bị bổ đôi, những mũi gươm xốc lên xác người quăng thảyxuống biển. Máu chảy ngập tràn.Ngôi vua cần phải đẫm máu như vậy sao?Nhưng sáng hôm sau trời yên biển lặng, mặt biển sáng loáng như gương. Nước biển rửasạch tất cả.Ghe ghé bờ, đêm tối đen. Bà đoán một đảo nào đó, nghe sóng vỗ khắp bốn bên. Ông nóibà phải ở lại đây, ông ở với bà vài ngày rồi ra đi. Ông cất cho bà căn nhà, đào cái giếng,vùng đảo hiếm nước ngọt. Ông để lại cho bà toán lính, cô gái nhỏ làm tỳ nữ, ít vòngvàng, không nhiều nhưng đủ để bà sinh sống. Có khi bà phải sanh con. Hãy nhớ đó làdòng máu của ông, bậc vua chúa. Ông hẹn bà ba năm, thắng bại gì ông cũng trở lại.Ông nói: “Ta phải đi. Đúng ra là trốn chạy. Nguy cấp lắm rồi! Ghe thuyền hư bể nhiều,quân lính hao hụt, phải để nàng ở lại đây thôi. Nhiều nàng khác cũng vậy. Thế trận khivầy khi khác, đừng vì chuyện thắng bại đánh giá ta. Nàng là vợ ta, ở trên đất của ta. Cáigiếng cẩn đá xanh kia là của ta, chỗ ta cắm mốc. Đất nước bắt đầu từ đây. Ta hẹn nàng banăm, ta không trở lại nàng cứ đi lấy chồng”.Rồi ông ra đi, một chiều biển động, mặt trời đậu xuống đỏ ối trên mặt nước. Bà đếm từngngày mong ông trở lại nhưng không thấy đâu. Đổi lại, bà nghe mầm sống nảy sinh trongngười. Bà tính bề sống lâu dài ở đảo. Toán lính thật tháo vát, đón ghe thuyền qua lại muagạo mắm, cá khô, hột giống, câu lưới, vải vóc cho bà sinh con. Hòn đảo không còn hoanghóa, rau cải xanh tươi, cây trái xòe tán rộng. Hàng dừa cao ngất ngày đêm oằn mình dướigió. Rái cá nhiều vô số kể, nằm phơi nắng trên các bãi cát, tung mình xuống biển lặn bắtcá, nằm ngửa bụng đập ăn con cầu gai, dập dềnh trên sóng nước.Tuần lễ vài lần bà kêu toán lính dẫn đi quanh đảo, coi có ai không, có dấu vết đâm chémgì không. Bà bị ám ảnh cuộc tàn sát đêm ấy trên biển. Không có ai cả, không dấu vết đâmchém. Bà trở về nhìn xuống giếng nước. Máu có thể thấm xuống lòng đất. Giếng nướctrong vắt. Ngàn đời, trên đất nước chiến tranh liên miên này, xương cốt chồng chất, cácgiếng nước bao giờ cũng trong.Bà vẫn đợi ông, nhưng lo cho cuộc sống của mình nhiều hơn. Đôn đốc toán lính liên hệvới ghe thuyền qua lại, buôn bán đổi chác, tìm đàn bà con gái cưới làm vợ. Bà sẽ lo gảchồng cho con nhỏ tỳ nữ này. Đảo cần có thêm người. Một hòn đảo nhỏ nhoi vẫn là mộthòn đảo, cũng là đất nổi trên mặt nước.Bà tính gần tới ngày sinh, kêu toán lính đón ghe qua lại tìm người đỡ đẻ. Họ tìm đượcmột bà mụ ghe, chuyên đỡ đẻ ghe thuyền trên biển. Bản thân bà mụ ghe cũng mười lầnsanh con, tự tay cắt rún thả nhau xuống biển. Năn nỉ lắm bà mụ ghe mới chịu lên đảo, nóikhông quen ở trên đất, say sóng lắm. Đám con cháu nội ngoại chạy túa lên lùng sục đuổibắt kỳ đà rắn mối, đối với chúng là những giống vật kỳ khu cổ quái. Bà mụ ghe khôngthắc mắc tại sao bà ở một mình, ai là cha đứa nhỏ, nghề mụ không được tò mò. Bà sanhcon trong một đêm sóng lặng, trời trong. Con trai, hoàng tử. Bà mụ ghe cắt rún bằng mộtmiếng vỏ sò, chôn nhau dưới chân một trong ba tảng đá. Đứa nhỏ lớn mau như thổi, biếtbò rồi biết đi. Thửa ruộng sau nhà có vụ mùa đầu tiên, nồi cơm thơm lừng cả đảo.Một đêm giông bão, sáng ra trời quang tạnh, thấy có chiếc ghe câu bị sóng đánh giạt vôbãi cát. Trên ghe có người đàn ông nằm chết giấc, thở thoi thóp, mình mẩy bầm giập,quần áo rách tơi tả. Đúng là ghe câu, có cả câu lưới nhưng người đàn ông giống tráng sĩhơn ngư dân. Mặt vuông, tóc dài, vai ngang, tay chân nổi những bắp thịt rắn chắc.Bà không màng người đàn ông là người như thế nào, kêu đám lính đưa ra sau cứu chữa,không được hỏi han. Tông tích bà cũng phải được giấu kín.Người ngư dân - tráng sĩ có sức khỏe phi thường, hôm sau đã ngồi dậy ăn được chéncháo, nói lấp vấp vài tiếng rồi ă ...