Việt Nam là một trong những quốc gia có nghề gốm xuất hiện khá sớm. Theo các tài liệu cổ, gốm đã xuất hiện ở Việt Nam một vạn năm trước đây. Sau đây, xin nêu vài nét khát quát sự có mặt của gốm qua quá trình phát triển lịch sử đất nước.
Thời tiền sử: những sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu thường thô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn giản ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gốm sứ cổ truyền
Gốm sứ cổ truyền
Việt Nam là một trong những quốc gia có nghề gốm xuất
hiện khá sớm. Theo các tài liệu cổ, gốm đã xuất hiện ở Việt
Nam một vạn năm trước đây. Sau đây, xin nêu vài nét khát
quát sự có mặt của gốm qua quá trình phát triển lịch sử đất
nước.
Thời tiền sử: những sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu
thường thô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn
giản ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các hoa văn
này được tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập hoặc dùng
que nhọn để vẽ, vạch.
Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát minh ra đồ gốm
tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi bàn tay của phụ nữ
(vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó); được nung ngoài trời, nhiệt độ
thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về
cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức.
Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm
được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong
phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy
những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động
và gốm m ỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét
chìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu
nhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn
này có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.
Thời đại đồ sắt: gốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng trong nước.
Chất lượng gốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng và trang trí thì chưa
có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật thời kỳ này cho thấy nghề
gốm vẫn gắn bó với nghề nông nhưng nam giới đã đóng vai trò quan trọng trong
quá trình sản xuất.
Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của phong kiến
phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp
thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản phẩm, xuất hiện thêm loại
gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có các tượng động vật nhỏ như lợn, bò
với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm thời kỳ này mang phong cách Hán hoặc kết
hợp hoa văn Việt và hoa văn Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khác được cải biên
theo phong cách Việt.
Thời Lý - Trần: thế kỷ 10 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ
phục hồi độc lập dân tộc sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa.
Suốt bốn thế kỷ, từ nhà Lý sang nhà Trần, đồ gốm đạt được những thành tựu rực
rỡ. Quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất liệu... đều được mở rộng. Nhiều
loại men được ứng dụng và ổn định về công nghệ. Đặc biệt men trắng cũng xuất
hiện ở thời kỳ này ngoài men tro và men đất. Ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của
đồ gốm là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Sự phát triển của kỹ thuật và
trình độ thẩm m ỹ cao đã tạo nên sản phẩm gốm thời kỳ này có ba loại nổi tiếng là
gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.
Về tạo dáng gốm Lý - Trần ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả
là cách tạo dáng của những đồ đồng trước đó. Trang trí trên gốm Lý - Trần, hoa
văn hình học chiếm vị trí phụ. Những hoạ tiết chính ở đây là hoa lá, chim, thú,
người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc rất gần gũi với thiên
nhiên và con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là nét chìm được làm bè ra,
một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên
độ đậm nhạt cho hoạ tiết như trên gốm men ngọc hoặc làm giới hạn để tô nâu.
Về k ỹ thuật, lò nung cho gốm thời Lý - Trần có một bước tiến lớn như việc sử
dụng các lò cóc, lò nằm, có khi cả lò rồng để nâng nhiệt độ nung cho sản phẩm lên
đến 1200ºC – 1280ºC. Việc sử dụng bao nung và kỹ thuật nung chồng bằng con kê
(lòng dong) được ứng dụng rộng rãi đối với nhiều loại sản phẩm đã cho thấy đạt
trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là gốm men ngọc. Nhiều địa phương sản xuất
gốm ở Thanh Hoá, Hà Nội, vùng Nam Định... chứng tỏ sự hình thành gốm tập
trung và mang tính chuyên nghiệp.
Gốm Lý - Trần đã tạo nên sự chuyển hoá bước đầu giữa yêu cầu sử dụng với chất
liệu. Điều này nó thể hiện bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, phản ánh tư
tưởng duy lý trong quá trình sán g tạo gốm và ứng dụng nó vào đời sống một cách
tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.
Sau thế kỷ 14: nhiều trung tâm sản xuất gốm chuyên môn hoá nổi tiếng như Bát
Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Hàm Rồng, Mỹ Thiện, Phú Vinh... chứng
tỏ sức sống mạnh mẽ của nghề. Nhiều sản phẩm gốm ghi lại địa phương, ngày
tháng và người sáng tạo ra nó. Nhiều quốc gia đã nhập gốm từ Việt Nam, đặc biệt
thợ giỏi của Nhật Bản còn bắt chước gốm của Việt Nam.
Tiêu biểu ch ...